GS Trần
Văn Thọ
08:32, 21/05/2020
TheLEADER
- Việt Nam phải khẩn trương đặt lại
chiến lược FDI, đưa ra các chính sách đối ngoại và ban hành các đạo luật có thể
ngăn chặn được các dự án FDI có vấn đề.
Giáo sư Trần Văn Thọ
Việt Nam đang đứng trước
khúc ngoặt lớn về FDI, phải xét lại toàn bộ chiến lược, chính sách, cơ chế quản
lý, đưa ra các quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan và cá nhân quyết định
cấp phép các dự án về FDI. Ngoài ra, Quốc hội cần sớm ban hành luật an ninh
kinh tế trong đó có các nội dung liên quan FDI.
Nếu hiểu lịch sử và lý luận
của sự quan hệ giữa FDI và phát triển kinh tế sẽ thấy việc tiếp nhận FDI là cả
một nghệ thuật về chiến lược, chính sách, đòi hỏi năng lực và tinh thần dân tộc
của người lãnh đạo Chính phủ, các bộ ngành và địa phương, để tranh thủ được nguồn
lực nước ngoài nhằm đẩy mạnh quá trình phát triển mà không bị chi phối bởi nước
ngoài.
Đó cũng là quan tâm chiến
lược, là chính sách, thái độ của Nhật Bản và Hàn Quốc trước đây, tuy hiện nay
ít người biết kinh nghiệm đó, chỉ biết họ là những nước đi đầu tư nhiều ở nước
ngoài.
Bốn tiêu chí để
đánh giá chất lượng FDI
Về lâu dài, những nước
thành công trong việc thu hút FDI thường có các điểm chung.
Thứ nhất, FDI phải được đặt
trong một chiến lược phát triển kinh tế hoàn chỉnh trong đó quy định những
ngành, những lãnh vực cần thu hút FDI. Thông thường những ngành doanh nghiệp
trong nước chưa có khả năng đầu tư nhưng xét thấy đó là những ngành có lợi thế
so sánh trong tương lai và thị trường thế giới đang lớn mạnh, lãnh đạo phải
tích cực tiếp thị để kêu gọi FDI vào những ngành đó và khi họ đến đầu tư thì
theo dõi, tạo điều kiện để các dự án đó phát triển thành công.
Trong dài hạn lợi thế so
sánh thay đổi và những ngành cần phát triển cũng thay đổi. Do đó, để chuyển dịch
cơ cấu công nghiệp lên cao, chiến
lược thu hút FDI cũng phải thường xuyên thay đổi theo hướng khuyến
khích doanh nghiệp nước ngoài ngày càng đầu tư vào các ngành có giá trị gia
tăng cao hơn, có hàm lượng công nghệ và tri thức nhiều hơn.
Thứ hai, khuyến khích, tạo
điều kiện để các dự án FDI lập ra theo hình thức liên doanh với doanh nghiệp
trong nước vì liên doanh mới tạo điều kiện cho công ty trong nước tiếp cận trực
tiếp với công nghệ và tri thức kinh doanh để sau này làm chủ được các nguồn lực
đó. Trường hợp cho phép 100% vốn nước ngoài phải được xem là ngoại lệ, dành cho
những dự án công nghệ rất cao, có sức lan tỏa ra nhiều ngành khác.
Thứ ba, để công nghệ và
tri thức kinh doanh lan tỏa từ dự án FDI sang các khu vực khác của nền kinh tế,
cần có chính sách thúc đẩy sự liên kết hàng dọc (vertical linkages) giữa FDI với
các công ty trong nước. Nghĩa là phải khuyến khích các dự án FDI tích cực dùng
nguyên liệu và các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ sản xuất trong nước, qua đó
doanh nghiệp FDI sẽ chuyển giao công nghệ, truyền đạt tri thức, chỉ đạo quản lý
để các công ty trong nước cung cấp hàng đủ chất lượng và với giá thành thích
đáng.
Điều kiện để thực hiện điểm
thứ hai và thứ ba là nội lực phải mạnh, cụ thể là phải có nhiều doanh nghiệp
trong nước mạnh mới liên doanh được hoặc hình thành liên kết hàng dọc với doanh
nghiệp FDI. Điều này cho thấy song song với việc thu hút FDI phải cũng cố nội lực.
Ngoài 3 điểm nói trên, đối
với Việt Nam, phải thêm một tiêu chí nữa. Tại châu Á, Việt Nam là nước đi sau
trong quá trình công nghiệp hóa. Xung quanh Việt Nam có nhiều nước mới phát triển
trước Việt Nam độ vài chục năm.
So với những nước đã phát
triển hàng trăm năm như Âu Mỹ và Nhật Bản, các nước xung quanh Việt Nam trình độ
công nghệ còn thấp, chưa hoặc ít có các công ty đa quốc gia tầm cỡ.
Ngoài ra, văn hóa kinh doanh, tinh thần trách nhiệm xã hội
của phần lớn doanh nghiệp tại các nước này cũng kém nên họ sẵn sàng có hành động
bất chính đối với quan chức các nước họ đến đầu tư và không có ý thức bảo vệ
lao động, bảo vệ môi trường.
Doanh nghiệp của các nước
tiên tiến Âu Mỹ và Nhật Bản trên cá biệt (nhất là những doanh nghiệp nhỏ, chưa
có thanh danh để sợ mất) có thể có các hành động bất hảo đó nhưng nếu bị phát
hiện sẽ bị chế tài bằng luật pháp của chính quốc gia của họ. Các nước xung
quanh Việt Nam thì không có các chế tài như vậy. Do đó khi đánh giá chính sách
FDI cần xem đa số các dự án đến từ các nước tiên tiến hay là từ các nước xung
quanh.
Bốn điểm nói trên cho thấy
việc thu hút FDI là cả một nghệ thuật đòi hỏi người lập chính sách và quản lý
FDI phải cố gắng không ngừng, phải quan tâm đến sự phát triển của doanh nghiệp
trong nước thì FDI mới có hiệu quả tích cực. Có thể gọi đó là 4 tiêu chí để
đánh giá thành quả thu hút FDI của một nước.
Đánh giá FDI tại
Việt Nam
Trong hơn 30 năm thu hút
FDI, chiến lược, chính sách của Việt Nam chưa đạt được 4 tiêu chí đã nói ở
trên.
Giai đoạn đầu thì bảo thủ,
lo ngại FDI chi phối kinh tế, thủ tục hành chính phức tạp làm nản lòng nhiều
doanh nghiệp lớn của các nước tiên tiến. Kết cuộc chỉ có mấy nền kinh tế như
Hong Kong, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan đầu tư vào các ngành công nghiệp nhẹ
như da giày, may mặc,….
Giai đoạn hai bắt đầu từ
khi gia nhập WTO (2007) thì lại cho tự do, không định hướng, không chọn lựa những
dự án theo các tiêu chí đã nói. Đặc biệt từ khi có chính sách phân quyền xuống
các địa phương, nhiều nơi hoặc thiếu kiến thức chuyên môn, hoặc không ý thức
trách nhiệm với tương lai đất nước, kể cả trường hợp bị công ty nước ngoài mua
chuộc, đã có nhiều dự án FDI chẳng những không cần thiết (vì doanh nghiệp trong
nước có thể đầu tư) mà còn gây ảnh hưởng đến môi trường và an ninh quốc
gia.
Nhìn chung, thu hút FDI
thời gian qua hầu như chỉ xem số lượng (như vốn đăng ký, vốn thực hiện) là
thành quả của chính sách FDI và ít quan tâm đến chất lượng, ít năng động tranh
thủ những dự án FDI có hiệu quả cho chiến lược công nghiệp hóa.
Hậu quả là Việt Nam trở
thành nền kinh tế phụ thuộc cao độ vào FDI (trong những nước có quy mô dân số
trên 50 triệu dân có lẽ Việt Nam là nước phụ thuộc FDI nhiều nhất). Công ty có
vốn nước ngoài chiếm khoảng 50% sản lượng công nghiệp và 70% kim ngạch xuất khẩu.
Tuy nhiên xét về chất (về 4 tiêu chí nêu ở trên) thì Việt Nam không thành công.
Thứ nhất, FDI không giúp
chuyển dịch cơ cấu công nghiệp, không đưa Việt Nam tiến lên cao trong chuỗi
cung ứng giá trị. FDI vào Việt Nam nhiều nhưng suốt trong thời gian dài từ khoảng
năm 1990 cho đến những năm 2000 chủ yếu là những ngành dùng nhiều lao động giản
đơn như may mặc, giày dép,...
Đó là những lĩnh vực
không cần nhiều vốn, không cần công nghệ cao nên đáng lẽ doanh nghiệp trong nước
có thể đầu tư hay ít nhất là liên doanh với nước ngoài trong giai đoạn đầu và
sau đó dần dần làm chủ hoàn toàn. Mặt khác, các ngành xuất khẩu ấy phải tùy thuộc
vào nhập khẩu từ Trung Quốc các sản phẩm trung gian như vải, tơ sợi,...
Từ thập niên 1990, dòng
chảy chủ đạo của FDI tại châu Á là các ngành công nghiệp máy móc với giá trị
gia tăng cao và nhu cầu trên thị trường thế giới lớn mạnh, như xe máy, đồ điện
gia dụng, ô tô, máy tính,... Việt Nam đã nhiều lần có cơ hội đón đầu dòng chảy
đó nhưng đã không chủ động về chính sách và sớm cải thiện môi trường đầu tư nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội.
Trên thực tế, có một số dự
án FDI ở Việt Nam trong các lĩnh vực đó nhưng hoạt động không thành công, không
trở thành những sản phẩm "Made in Vietnam" trên thị trường thế giới.
Từ khoảng năm 2010 cơ cấu
FDI mới có thay đổi theo hướng tăng nhiều dự án trong các lĩnh vực mới như máy
tính, điện thoại di động,... nhưng các ngành phụ trợ liên quan chưa phát triển
nên sự tham gia của doanh nghiệp trong nước trong các dự án đó còn yếu.
Thứ hai, phân tích hình
thái FDI cho thấy, hiện nay hầu hết là 100% vốn nước ngoài, liên doanh giữa nước
ngoài với công ty trong nước rất ít. Tính gộp tất cả dự án có từ trước và còn
đang hoạt động cho thấy gần 80% dự án là 100% vốn nước ngoài. Những dự án FDI
điển hình và nổi tiếng gần đây cũng theo hình thái 100% vốn nước ngoài. Chẳng hạn Samsung đầu tư
với quy mô lớn tại Bắc Ninh và Thái Nguyên nhưng cả hai dự án đều là 100% vốn
Hàn Quốc.
Thứ ba, cho đến nay hầu
như sự liên kết giữa FDI và doanh nghiệp trong nước rất yếu. Muốn liên kết thì
doanh nghiệp Việt Nam phải cung cấp các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đủ chất lượng
và với giá cả cạnh tranh được. Nhưng ở Việt Nam bây giờ vẫn còn bàn cãi vấn đề
tại sao ngành công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển đủ cho thấy tình hình các
doanh nghiệp trong ngành này còn yếu như thế nào.
Thứ tư, nhìn cơ cấu các
nước đầu tư tại Việt Nam cho thấy, các nước mới phát triển và ở gần Việt Nam
chiếm vị trí áp đảo. Trừ Nhật Bản hầu như không thấy vai trò của các nước tiên
tiến. Chẳng hạn năm 2019, trong tổng kim ngạch 38 tỷ USD của FDI (kể cả vốn
đăng ký mới, vốn điều chỉnh và mua cổ phần), đứng đầu là Hàn Quốc và Hong Kong,
sau đó là Singapore; Nhật Bản xếp thứ thư và Trung Quốc thứ năm.
Trong 4 tháng đầu năm
2020, Trung Quốc tiến lên hạng thứ hai chỉ sau Singapore (Hàn Quốc thứ ba và Nhật
Bản thứ tư). Đặc biệt Mỹ chỉ có 28 triệu USD so với Trung Quốc là 826 triệu
USD.
Trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và
đại dịch Covid, nhiều công ty Mỹ và Nhật muốn di chuyển nhà máy từ Trung Quốc
sang các nước khác, nhưng tại Việt Nam chỉ thấy sự hiện diện của Trung Quốc là
rõ nét.
FDI từ Trung Quốc
và vấn đề an ninh kinh tế, an ninh quốc gia
Trên đây nhìn từ mặt thuần
túy kinh tế đã thấy FDI từ Trung Quốc nhìn chung (trừ ngoại lệ) thuộc về những
nước đầu tư không thể có chất lượng tốt. Ở đây khi nói riêng về Trung Quốc cần
thêm 2 điểm nữa.
Một là, lịch sử hình
thành các doanh nghiệp đa quốc gia của Trung Quốc rất ngắn, nhất là thời gian
hoạt động trong kinh tế thị trường chưa đủ dài để xác lập hệ thống quản trị doanh nghiệp (corporate
governance) và văn hóa kinh doanh.
Trên thực tế, trong 100
công ty đa quốc gia lớn nhất của Trung Quốc thì có tới 81 là doanh nghiệp nhà
nước hoặc doanh nghiệp cổ phần nhưng nhà nước chi phối. Khi văn hóa kinh doanh
và hệ thống quản trị doanh nghiệp chưa được xác lập mà đầu tư mạnh ra nước
ngoài sẽ dễ gây xung đột với quyền lợi ở nước sở tại, dễ gây ảnh hưởng xấu đến
môi trường, đến các quan hệ về văn hóa, xã hội.
Hai là, vì nhiều doanh
nghiệp chưa tích lũy nguồn lực kinh doanh như công nghệ, tri thức quản lý, cho
đến nay hình thức FDI ra nước ngoài chính của doanh nghiệp Trung Quốc là mua
bán và sáp nhập (M&A). Đây là hình thái xâm nhập, sở hữu kinh doanh nhanh
chóng nhất ở thị trường nước ngoài. Số dự án M&A của doanh nghiệp Trung Quốc
tăng vọt từ năm 2016.
Gần đây, lợi dụng tình trạng
khó khăn do đại dịch Covid-19, nhiều
doanh nghiệp Việt Nam trở thành đối tượng M&A của doanh nghiệp nước ngoài,
đặc biệt là doanh nghiệp của Trung Quốc. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và đầu
tư, trong bốn tháng đầu năm nay, số lượt góp vốn và mua cổ phần của nhà đầu tư
nước ngoài tăng 33% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó riêng M&A của doanh
nghiệp Trung Quốc tăng 38%.
Một điểm quan trọng nữa,
nhiều công ty FDI của Trung Quốc đưa nhiều lao động giản đơn sang Việt Nam. Chỉ
kể số khảo sát được cũng đã lên tới gần 5.000. Tại sao Việt Nam phải xuất khẩu
lao động mà lại cho nhập khẩu nhiều lao động từ Trung Quốc như thế?
Ngoài yếu tố kinh tế, gần
đây nổi cộm lên nhiều vấn đề khác rất đáng quan ngại. Thông tin từ Bộ Quốc
phòng cho thấy doanh nghiệp Trung Quốc thuê đất lâu
dài ở khu vực biên giới, khu vực biển và nhiều nơi nhạy cảm về an ninh quốc
gia. Vấn đề này được báo chí phản ảnh từ lâu nhưng tin chính thức của Bộ Quốc
phòng làm nhiều người càng lo ngại. Chưa hết, báo chí cũng phản ảnh một số
doanh nghiệp Trung Quốc có hành động tuyên truyền cho đường lối xâm lấn biển đảo
của nước họ, đi ngược lại chủ trương về chủ quyền của Việt Nam.
Ở đây cần chú ý một điểm
liên quan: Từ Đại hội lần thứ 19 (tháng 10/2017), Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
đưa ra chủ trương tăng cường sự lãnh đạo, kiểm soát đối với mọi mặt của kinh tế,
xã hội, văn hóa, trong đó có hoạt động của doanh nghiệp.
Nhiều nước đã cảnh giác
và ban hành các sắc luật mới hoặc sửa đổi các luật cũ nhằm ngăn ngừa các dự án
FDI ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Từ khoảng 4-5 năm trước, Quốc hội Mỹ đã soạn
thảo nhiều luật liên quan đầu tư từ nước ngoài và có quy định đặc biệt thẩm tra
kỹ các dự án đến từ Trung Quốc để tránh trường hợp bí quyết về công nghệ hoặc
thông tin về an ninh quốc gia được chuyển về Trung Quốc.
Gần đây lợi dụng tình trạng
chứng khoán rớt giá tại nhiều nước, Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động M&A nên
Úc, Nhật, Đức và nhiều nước khác đưa ra biện pháp ngăn chặn nguy cơ thâu tóm
doanh nghiệp trong thời gian khủng hoảng kinh tế nhằm để bảo vệ các
ngành kinh tế quan trọng, các doanh nghiệp trọng điểm hoặc có liên quan đến an
ninh quốc gia.
Vài lời kết
Chính sách thu hút FDI của
Việt Nam cho đến nay chỉ chạy theo số lượng, thiếu sự chọn lựa chiến lược làm
cho xí nghiệp nước ngoài hiện diện trên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế một cách
không cần thiết. Phần lớn các dự án FDI không đến từ các nền kinh tế có công
nghệ và văn hóa kinh doanh tiên tiến.
Chúng ta phải khẩn trương
đặt lại chiến lược FDI trên cơ sở 4 tiêu chí phân tích ở phần đầu bài viết này.
Ngoài ra, phải quan tâm hơn đến an ninh kinh tế, an ninh quốc gia khi xét các dự
án FDI và cần ban hành các đạo luật liên quan.
Trung Quốc là nền kinh tế
lớn lại là nước láng giềng Việt Nam cần duy trì, phát triển quan hệ, đặc biệt
trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Nhưng phân tích khách quan nhiều mặt đã cho thấy
đáng quan ngại về FDI từ nước này.
Việt Nam cần đưa ra các
chính sách đối ngoại và ban hành các đạo luật nhằm một mặt thu hút FDI trong
các ngành công nghệ cao, giúp chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao hơn, mặt
khác tránh các ảnh hưởng liên quan an ninh kinh tế và an ninh quốc gia.
Các chính sách và đạo luật
không nhắm vào một nước cá biệt mà áp dụng chung cho tất cả các nước nhưng chất
lượng của các chính sách, các luật này sẽ ngăn chặn được các dự án FDI “có vấn
đề”.
Một ví dụ: Liên quan đến
việc mua bán và sáp nhập (M&A), chúng ta quy định một trần giới hạn (chẳng
hạn tối đa 15 hay 20% trong tổng kim ngạch giao dịch lũy kế) cho các doanh nghiệp
đến từ một nước; hoặc đưa ra danh mục các ngành, các công ty mà chúng ta không
muốn bị nước ngoài mua,...
Những vấn đề khác liên
quan FDI của Trung Quốc nói ở trên cũng ngăn ngừa được nếu đưa ra các quy định,
các luật lệ cụ thể. Cũng cần có các điều lệ hay luật pháp phạt nặng những quan
chức hay người Việt Nam tiếp tay cho nước ngoài lách luật để chi phối kinh tế
hoặc gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
-----------------
(*) Bài viết thể hiện quan điểm của GS. Trần Văn Thọ
(Tokyo - Nhật Bản)
No comments:
Post a Comment