Trọng Thành - RFI
Đăng ngày: 25/12/2019 - 21:00
Văn
học Việt Nam thế kỷ XX đã có những chuyển biến phi thường. Văn hóa Thiên Chúa
Giáo đã góp gì vào những thay đổi ngoạn mục ấy? Đây là điều vẫn còn ít được giới
nghiên cứu tại Việt Nam chú ý. Dịp Noel năm nay, mời quý vị theo dõi một số
chia sẻ của nhà nghiên cứu
văn học Lại Nguyên Ân (Hà Nội).
Trong cuộc trả lời phỏng vấn RFI, ngày Noel
25/12/2019, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân giới thiệu bốn trong số các nhà văn Việt
Nam, mà dấu ấn văn hóa Thiên Chúa Giáo in đậm. Hàn Mặc Tử với ''sự thăng hoa
của cái đam mê tội lỗi'', khát khao vươn tới ''Phục Sinh và Khải Huyền''.
Nguyên Hồng với cái chân thật, cái lương thiện của những người dân nghèo, nhiều
khi rơi vào cảnh cùng quẫn, nhưng suốt đời hướng về cái thuở nguyên khôi, ''tựa
như nhân loại ở vào thời Sáng Thế''. Nam Cao nổi bật với thế giới ''những
người trí thức nhỏ'' thường xuyên nghiêm khắc với những lỗi lầm của bản
thân, ''tự phán xét, mổ xẻ tâm địa của mình''. Một lối sống rất gần với
truyền thống Thanh Giáo. Và Phan Khôi, người khởi xướng phong trào Thơ Mới, tuy
không phải là tín đồ Thiên Chúa, nhưng chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi giai đoạn dịch
Kinh Thánh với một nhóm mục sư Tin Lành (1).
Mời nghe: Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân (Hà Nội)
***
RFI
: Lễ Giáng Sinh Noel đã trở thành một dịp hội lễ được chào mừng bởi
đông đảo người Việt Nam, kể cả những người không phải là tín đồ Thiên Chúa
Giáo. Thế nhưng dấu ấn Thiên Chúa Giáo trong văn học Việt Namdường như còn ít
được chú ý, thưa ông ?
Lại
Nguyên Ân: Trong văn học Việt Nam, nếu nghiên cứu một cách kỹ
lưỡng, thì có một bộ phận được gọi là văn học Thiên Chúa Giáo của các tác giả
Việt Nam, và cũng đã có một vài tác giả viết về mảng này. Ví dụ như ông Lê Đình
Bảng, đã có một cuốn về ''Lịch sử văn học Công Giáo Việt Nam''. Một số
nhà nghiên cứu ở nước ngoài, như Võ Long Tê, cũng đã nói về văn học Thiên Chúa
Giáo của người Việt. Nhưng bây giờ, nghiên cứu phổ biến ở trong nước vẫn chưa
chú ý đến bộ phận này.
Có một thời gian nhất định, có những nhà văn lấy đề
tài Thiên Chúa Giáo mang tính chất là chống lại ảnh hưởng của nó, ví dụ như của
Nguyễn Khải những năm 1960 ở miền Bắc, hay của ông Chu Văn, những năm 1960 –
1970, gắn với dòng văn học ''chính thống''. Tôi nghĩ đấy là một đề tài
khác.
Còn một đề tài mà tôi muốn lưu ý là với một số nhà
văn đã thành tựu. Họ không định viết riêng về Thiên Chúa Giáo, nhưng bởi họ có
gắn với thế giới Thiên Chúa Giáo. Ví dụ như gia đình họ theo Thiên Chúa Giáo,
theo Công Giáo, nhưng về sau, khi đi viết văn, sống ở đô thị, rồi nhất là sống
trong xã hội của cán bộ ở miền Bắc chẳng hạn, thì cái gốc Thiên Chúa Giáo, thì
đôi khi họ cũng phải coi như chỉ là thuộc về ''lý lịch'' thôi, chứ không
phải là cái hiện tại của họ. Thế thì trong trường hợp ấy, chúng ta sẽ thấy những
nét của Thiên Chúa Giáo có thể hoặc đậm, hoặc nhạt trong sáng tác của họ. Thì
những điều ấy phải nhìn sâu vào sáng tác của họ, con đường của họ, phong cách của
họ thì chúng ta mới có thể nhận ra được.
*
RFI
: Vậy xin ông cho biết một số nét về chiều sâu của tinh thần Thiên Chúa
Giáo trong tác phẩm của một số nhà văn Việt Nam tiêu biểu.
Lại
Nguyên Ân: Trong số những nhà văn Việt Nam đã thành tựu và thậm
chí đã trở thành những tác giả tiêu biểu trong văn học Việt Nam hiện đại, tôi
có thể đề cập đến theo kiểu tùy bút thôi, chứ không phải là toàn bộ. Tôi xin nói
đến ba tên tuổi lớn, Hàn Mặc Tử (sinh năm 1912 mất năm 1940), là nhà thơ, Nam
Cao, nhà văn (1917 - 1951) và thứ ba là Nguyên Hồng (1918 – 1982). Ba nhà văn
này gắn với Thiên Chúa Giáo trước hết với việc họ xuất thân từ gia đình theo đạo,
theo Công Giáo (2).
Nguyên Hồng gần như không có sáng tác nào riêng về đạo
Thiên Chúa, thế nhưng tôi nhớ đến một bài hồi ức của ông nhan đề là ''Từ
bình nước phép bằng đá ở nhà thờ đến làn sóng mặn ở Biển Đen”, Nguyên
Hồng nói về hai đoạn đời của nhận thức của ông trong văn học. Đoạn đầu ông ấy
nhớ đến những giọt nước phép mà lúc ông ấy còn là cậu bé được rảy lên đầu trong
các dịp lễ, còn đoạn cuối của hồi ức, ông ấy nói đến cảm nhận của ông, khi đọc
một truyện ngắn của Gorki (nhà văn Nga, được chính quyền cộng sản Liên Xô một
thời tôn làm người cha đẻ của văn học chính thống ''hiện thực xã hội chủ
nghĩa'' - người phỏng vấn bổ sung). Ông Gorki kể chuyện ông ấy đỡ đẻ cho một
phụ nữ bên bờ Hắc Hải, rồi ông ấy tắm cho đứa trẻ đó ở Biển Đen. Chỗ đó Nguyên
Hồng có ý muốn nói là ông ấy đã thoát khỏi Nhà thờ rồi, là một con người khác rồi.
Thế nhưng, tôi nghĩ, đó là ông ấy nghĩ cho hợp thời của những năm 1960 – 1970 ở
miền Bắc Việt Nam mà thôi. Còn thật ra Nguyên Hồng không thể che giấu được cái
chất phác, thực thà của ông, như là những người nghèo ở đô thị trong các tác phẩm
của ông.
Có thể nói trong đời mình, trong các sáng tác văn học
của mình, Nguyên Hồng đã đem vào văn chương cái lương thiện của người dân nghèo
ở đô thị. Mà những người đó, ít nhiều gắn với đạo Thiên Chúa. Những nhân vật của
Nguyên Hồng, như mẹ La, cụ Cam, gái Đen, Tám Bính hay Năm Sài Gòn… chẳng hạn,
thì dẫu bị cuốn vào nếp sống của đám ''đao búa'', ''anh chị'',
thì vẫn trông về một cái dịp hoàn lương, luôn nghĩ rằng hiện thời không phải với
lương tâm, có tội với Đức Chúa Trời.
Cho nên có thể nói, trong cái thế giới lầm than của
các nhân vật trong văn xuôi Nguyên Hồng, thì không có kẻ ác. Ông Nguyên Hồng tập
trung cảm tình vào cái thời mà lớp người vô sản chỉ vừa mới trở thành vô sản, tức
là đầy niềm tin vào cái gì chân thật, có cái gì tựa như nhân loại ở buổi Sáng
Thế. Rồi khi mắc Tội tổ tông, phải chịu lưu đày, phải vác thập giá, thì vẫn
không nguôi hoài nhớ về thuở ban đầu.
*
RFI: Còn
về nhà thơ Hàn Mặc Tử, một người gắn bó rất đặc biệt với đạo Thiên Chúa, xin
ông cho biết một số nét chính, mà theo ông là những điểm khiến người ta cho rằng
đây là một nhà văn Thiên Chúa Giáo tiêu biểu.
Lại
Nguyên Ân: Thơ Hàn Mặc Tử có cái thăng hoa của cái đam mê tội
lỗi, đau đớn bí mật. Ở thơ Hàn Mặc Tử có sự vươn tới một cõi cao xa rực rỡ, kỳ
vĩ. Người ta gặp lại trong thơ Hàn Mặc Tử những cái mà các nhà văn hóa gọi là
''các archétype'' (những mẫu gốc) của Kinh Thánh Cơ-đốc. Tôi nhớ ông Đặng
Tiến (nhà phê bình văn học) có viết một bài dài trên báo Văn xuất bản ở Sài Gòn
những năm 1960, nói rằng ở ba giai đoạn cấu thành thơ Hàn Mặc Tử, từ tập Gái
Quê, đến tập Đau Thương, rồi Xuân Như Ý, thì người
đọc gặp lại các chủ đề cương lĩnh của Cựu Ước và Tân Ước Thiên Chúa Giáo. Tức
là một vũ trụ ngây thơ đã đổ vỡ do Tội tổ tông, cái khổ hạnh của thân xác như
thể nghiệm của mơ ước huyền diệu, trong sự đợi chờ Điềm Lạ để lên tới một thế
giới sáng láng khác ngoài cõi hư linh. Đó là thế giới của Phục Sinh và Khải Huyền.
*
RFI: Vì
sao nói đến dấu ấn Thiên Chúa Giáo trong Nam Cao?
Lại
Nguyên Ân: Có thể nói khi ông ấy viết văn, và sau này khi
tham gia kháng chiến, có thể nói ông ấy đã gần như trút bỏ con người theo đạo,
theo đạo thông thường, mà đã trở thành ''cán bộ''. Thế nhưng, thứ nhất
là Nam Cao vẫn có một loạt cái viết về tôn giáo. Ví dụ như hồi những năm 1940,
viết về các sự tích trong Kinh Thánh, để cho sách cho trẻ em, những sự tích như
''Bảy Bông Lúa Lép''. Nhưng theo tôi, có thể nhận thấy dấu ấn văn hóa
Thiên Chúa Giáo ở Nam Cao ngay trong các tác phẩm ông ấy viết khi đi kháng chiến,
ví dụ như ''Ở rừng'', Nhật ký của ông trong kháng chiến chống Pháp.
Thế giới những người trí thức nhỏ của ông thường đối
diện với cái lỗi lầm, tự phán xét, rồi phân tích cái kém cỏi của mình, mổ xẻ
cái tâm địa của mình. Và cái tinh thần ấy, theo tôi hiểu là, nói là cái dấu vết
theo kiểu đạo đức Nho Giáo, kiểu như khắc kỷ phục lễ, tiên trách kỷ hậu trách
nhân…, thì tạm được thôi, nhưng mà người ta không thể hình dung là Nho Giáo lại
có thể yêu cầu gắt gao, riết róng kiểu như vậy, đối với những người theo Nho
Giáo. Đối với Nho Giáo, thì có lẽ chỉ cần phải biết giữ Lễ, rồi biết đối nhân xử
thế, đứng đúng chỗ, đóng đúng vai thôi, chứ không cần sự thành thực. Tự mổ xẻ,
theo tôi, là xa lạ với Nho Giáo.
Bởi vì nếu mà thật sự sám hối, tự giải phóng để được
tự do bên trong, thì đó lại là điều nguy hiểm với Nho Giáo, vì Nho Giáo không
muốn có con người tự giải phóng như vậy.
Theo tôi, Nam Cao gần với Thanh Giáo (Puritanisme) ở
Anh, một nhánh Thiên Chúa Giáo không phổ biến lắm ở Công Giáo Việt Nam. Cái chất
tín đồ này vẫn giữ nguyên trong nhân vật công chức trong tác phẩm ''Sống Mòn'',
vẫn còn nguyên ở trong anh cán bộ Nam Cao trong ''Nhật ký ở rừng'' ở Việt
Bắc thời kháng chiến. Những năm 1947 – 1948 như vậy mà có một nếp sống tự phê
bình gay gắt, quyết liệt, như ở Nam Cao trong Nhật ký ở rừng, thì cái đó không
phải là do ảnh hưởng của ''văn hóa Diên An'' (của đảng Cộng Sản Trung Quốc,
tràn sang Việt Nam trong những năm sau này), mà là do dấu ấn tự phán xét của
con người theo Thiên Chúa.
Ông mất quá sớm trước khi cái văn hóa ấy nó đến, và
trở thành một nếp sống được gắn với lối sống của thế giới cán bộ. Nam Cao chưa
kịp thể nghiệm cái đó.
*
RFI: Thế
còn ảnh hưởng của Tin Lành, một nhánh Thiên Chúa Giáo lớn khác, với văn học Việt
Nam, thưa ông ?
Lại
Nguyên Ân: Nếu Tin Lành thì phải những nhà văn khác. Tôi là người
nghiên cứu về nhà văn Phan Khôi (1887 – 1959). Ông là người đã tham gia dịch
Kinh Thánh với một tổ chức Tin Lành từ Mỹ vào. Phan Khôi không theo đạo, ông là
người xuất thân Nho Giáo, và sau này ông cũng không theo đạo nào. Nhưng ông ấy
đã có 5 năm cộng tác với nhóm Tin Lành của vợ chồng mục sư Cadman. Cuốn Kinh
Thánh của đạo Tin Lành mà Phan Khôi có tham gia dịch, đã được xuất bản năm
1926, và gần đây được in lại, người ta đánh giá tương đối cao.
Về Phan Khôi, tôi đánh giá là thời gian 5 năm tham
gia đó, đối với Phan Khôi là một kỳ học đáng kể lắm, so với thời kỳ học thứ nhất
của ông, trong Nho Giáo. Trong cái khoảng thời gian viết báo của Phan Khôi cho
đến năm 1924, tôi thấy rất rõ là Phan Khôi có bàn một vài lần về Nho Giáo, về
các phạm trù đạo đức của Khổng Giáo, thì lúc đó ông thuyết minh cho học thuyết
Khổng Giáo với tư cách là một tín đồ, không có một chút nào là phê phán cả (3).
Sau 5 năm làm việc với hội thánh Tin Lành dịch Kinh
Thánh, thì đến năm 1929, Phan Khôi đã nêu vấn đề phê phán Khổng Giáo. Ông viết
một loạt bài, sau này người ta ghi là 21 bài trên báo Thần Chung, có nhan đề
chung là ''Cái ảnh hưởng của Khổng Giáo ở nước ta''. 21 bài đó gây một
chấn động ở lớp thanh niên có học. Cũng thời điểm đó, Trần Trọng Kim viết bộ
sách về Nho Giáo. Phan Khôi lần đầu tiên lên tiếng phê phán Khổng Giáo, học
thuyết đến thời hiện đại đã tỏ ra lạc hậu. Và trước xu hướng Âu hóa của xã hội
phương Đông nói chung, trong đó có Việt Nam, Khổng Giáo đối đầu với xu hướng Âu
hóa và đã thua. Cái nhãn quan đó, theo tôi, chưa hề có ở Phan Khôi trước 1925.
Chúng ta không thể chỉ ra được cái ảnh hưởng một
cách rạch ròi, vì Phan Khôi rất ít nói về điều đó, nhưng tôi cho rằng cái ảnh
hưởng của 5 năm dịch Kinh Thánh rất quan trọng. Vì trước đó Phan Khôi là một nhà
nho, dù không tán đồng nhiều điểm của Nho Giáo.
Sau 5 năm đó, Phan Khôi đã chuyển biến, và hoạt động
sau này về báo chí, về văn nghệ hoàn toàn có những nét khác. Đến năm 1932, ông
nêu ra vấn đề cách tân thơ. Ông nêu ra một bài mang tên ''Lối thơ mới trình
chánh giữa làng thơ'', đề nghị theo một lối Thơ Mới. Đề xuất cải cách đó được
hưởng ứng… Sau đó một loạt sáng tác Thơ Mới xuất hiện, và diễn ra cả một phong
trào sáng tác cách tân thơ tiếng Việt, xây dựng một nền thơ tiếng Việt mới gắn
với văn hóa, báo chí Quốc ngữ. Đấy là một trong các cải cách, đưa văn học tiếng
Việt trở thành một hệ thống văn học mới, thay cho hệ thống văn học cũ của người
Việt, vốn gắn với các thể lệ cũ, gắn với văn hóa Hán – Nôm.
Ta không thể loại trừ cái tinh thần mà Phan Khôi -
có được sau khi tiếp xúc với nhóm Tin Lành trong 5 năm đó - đã để lại dấu ấn
trong các hoạt động văn học, nghệ thuật của ông ấy kể từ năm 1928, trong đó có
những việc như phê phán tư tưởng Khổng Giáo, hay việc đề xuất phong trào Thơ Mới,
vấn đề phụ nữ trong công luận… Một loạt việc như thế, nếu gắn với ảnh hưởng của
5 năm cộng tác (dịch Kinh Thánh) với nhóm Tin Lành cũng là hợp lý.
*
RFI
: Ông có nhận xét gì chung về vấn đề dấu ấn Thiên Chúa Giáo với văn học
Việt Nam ?
Lại
Nguyên Ân : Trong việc xem xét văn hóa Thiên Chúa Giáo,
có thể nói là ở giới nghiên cứu Việt Nam, vẫn có sự chưa đúng mức. Rất có thể bởi
vì còn rất nhiều những ràng buộc, hạn chế mang tính chất ý thức hệ. Cho nên văn
hóa Thiên Chúa Giáo, ở một phía nào đấy, vẫn còn bị nhìn nhận một cách dè chừng,
thậm chí tìm cách để giới hạn.
*
RFI
xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân
-------------------
Ghi
chú
1 – Từ những năm 1990, Lại Nguyên Ân đã sưu tầm và
giới thiệu hàng nghìn bài viết của nhà văn, nhà báo Phan Khôi (từ 1917 đến
1959), được công bố trong hơn 10 tập sách.
2 – Mùa Noel 1991, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân có
bài ''Từ
nguồn sáng lạ…'' nói về chủ đề văn học Việt Nam và dấu ấn Thiên Chúa
Giáo.
3 - Nho Giáo có ảnh hưởng rất lớn
lao đến văn học Việt Nam thời trung đại, và kể cả sau này, theo một chuyên gia
hàng đầu về lịch sử văn học Việt Nam. Xem Trần Đình Hượu ''Nho giáo và văn học
Việt Nam trung cận đại'', Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1995.
No comments:
Post a Comment