Võ
Văn Quản - Luật Khoa
16/12/2019
Tác phẩm nghiên cứu quốc tế về Việt Nam xuất bản mỗi năm chỉ trên đầu
ngón tay, và không phải tác phẩm nào cũng do người Việt Nam viết. Đây là một điều
rất đáng tiếc. Song giá trị khoa học và đóng góp của những tác phẩm này dành
cho cộng đồng người Việt, các nhà nghiên cứu người Việt Nam là rất đáng quý và
rất đáng tham khảo. Năm 2019 sắp kết thúc, người viết xin giới thiệu đến bạn đọc
bốn tài liệu, nghiên cứu đáng tham khảo được công bố vào cuối năm 2018 và trong
năm 2019 viết về Việt Nam.
-------------------
Tạm dịch: “Lo lắng về thực phẩm ở một nước Việt
Nam toàn cầu hóa”
Nhiều tác giả
Nhà xuất bản: Palgrave Macmillan (Anh)
Nhiều tác giả
Nhà xuất bản: Palgrave Macmillan (Anh)
https://www.luatkhoa.org/wp-content/uploads/2019/12/Food-Anxiety-in-Globalising-Vietnam-678x1024.jpg
Ảnh: Amazon.
Đây là một cuốn sách đặc biệt thú vị về thực phẩm và
những thói quen ăn uống của người dân Việt Nam, từ đó bàn về căn tính, bản chất
và thậm chí là danh tính của dân tộc. Do nhiều tác giả tổng hợp và đóng góp, mà
thú vị thay là chỉ có một tác giả Việt Nam tham gia. Quá trình toàn cầu hóa thức
ăn (food globalisation) đã và đang dẫn đến nhiều thay đổi và những hướng phát
triển khác biệt tại nhiều quốc gia.
Theo cách nghĩ thông thường, các quốc gia phương Bắc
(Global North – một thuật ngữ thường dùng để chỉ các quốc gia phát triển) thường
quan tâm về chất lượng và độ an toàn của thực phẩm nhờ vào một nền nông nghiệp
hiện đại và được tiêu chuẩn hóa. Trong khi đó, các quốc gia phương Nam (Global
South – chỉ các quốc gia đang và kém phát triển) thường lại lo sợ về tình trạng
thiếu thốn lương thực nhiều hơn. Việt Nam, giữa ngã ba phát triển, là một đối
tượng nghiên cứu thú vị về nỗi “âu lo ăn uống” của thế kỷ 21.
Là tập hợp của nhiều nghiên cứu ngắn lại với nhau, rất
nhiều đề tài và góc nhìn mới lạ được khai thác trong quyển sách
này.
Trong một bài viết bàn về những thói quen ẩm thực “cấm”
tại Việt Nam tại Chương I, nhà nghiên cứu cho rằng thói quen ăn thịt rừng, thịt
cấm và một số các bộ phận đặc biệt của động vật để thể hiện sự nam tính, khả
năng tình dục… là một phần của ý thức phụ hệ, sự kết nối rõ ràng giữa món ăn và
suy nghĩ, hoạt động tình dục và tư tưởng “vật hóa” (objectify) phụ nữ trong xã
hội Việt Nam. Tác giả ghi nhận, điều này hình thành nên một nền ẩm thực kỳ lạ vốn
không phụ thuộc vào mong muốn và nhu cầu ăn uống thông thường, mà ngầm trong đó
còn ẩn chứa các quan niệm về giới tính và bất công xã hội.
Trong một bài viết khác, tác giả Judith Ehlert lại
bàn về các vấn đề liên quan đến trách nhiệm mà xã hội đặt lên người mẹ và nạn
béo phì ở quốc gia còn chưa được xem là thu nhập trung bình trên thế giới này.
Tập trung số liệu và phân tích tại thành phố Hồ Chí Minh, Ehlert bàn về ba vấn
đề liên quan đến “âu lo ăn uống” mà một người làm mẹ ở Việt Nam phải gánh chịu:
(i) sức ép của các phương tiện truyền thông và quảng cáo, phổ biến quan điểm
cho rằng cho con mình ăn các loại thức ăn dinh dưỡng nhất, ngoại nhập, với nhiều
chất bổ trợ… là biểu tượng cao cả nhất của tình thương mẫu tử; (ii) trong khi
đó, các chiến dịch sức khỏe cộng đồng lại đặt áp lực lên người mẹ trong việc kiểm
soát chế độ dinh dưỡng của trẻ và cho đó là nghĩa vụ làm mẹ; (iii) cuối cùng,
bà chỉ ra những đối lập và gánh nặng của định kiến xã hội cho rằng chế độ dinh
dưỡng của trẻ em là “bổn phạm đạo đức con người” của người mẹ, từ đó tạo nên nỗi
ám ảnh âu lo ăn uống mà phụ nữ có con hoặc chuẩn bị sinh con gặp phải.
Ở gần cuối nghiên cứu, còn có hẳn một chương về
“Chính trị và an ninh lương thực” tại Việt Nam, với những bài viết độc lập
nghiên cứu khá chi tiết về vai trò của Trung Quốc đối với ngành lương thực cũng
như an ninh lương thực của Việt Nam trong tương lai. Một số tác giả còn chỉ ra
sự mỏng manh của lưới an ninh lương thực tại Việt Nam. Trong cuộc khủng hoảng
lương thực 2007-2008, tác giả Timothy Gorman phải thảng thốt: “Thề có Chúa, ngay
tại thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm của khu vực xuất khẩu lúa gạo lớn thứ hai
thế giới, các sản phẩm gạo bị vét sạch khỏi hệ thống mua bán lẻ, siêu thị… chỉ
trong hai ngày.”
Là một đề tài nghiên cứu thú vị, lại được trình bày ở
nhiều góc nhìn khác nhau bởi các tác giả khác nhau, quyển sách chắc chắn sẽ
mang đến cho bạn đọc nhiều thông tin bổ ích, đặc sắc và đặc biệt là rất dễ tiếp
nhận.
----------------------
Tạm dịch: “Vừa xây vừa phá: Hoạt động kiến quốc của
người Mỹ ở miền Nam Việt Nam”
Tác giả: Andrew J. Gawthorpe (Đại học Leiden – Hà Lan)
Nhà xuất bản: Đại học Cornell (Mỹ)
Tác giả: Andrew J. Gawthorpe (Đại học Leiden – Hà Lan)
Nhà xuất bản: Đại học Cornell (Mỹ)
Ảnh: Amazon.
“Vừa xây vừa phá” được đánh giá là một nghiên cứu
toàn diện, chặt chẽ và đặc biệt quan trọng, không chỉ là một mảnh ghép lịch sử
trong nhiều mảnh ghép khác về miền Nam Việt Nam, mà cả về kinh nghiệm và sai lầm
trong học thuyết xây dựng chính thể và nền tảng của nhà nước. Tuy nhiên, cách
tiếp cận về chiến tranh Việt Nam của tác giả Andrew J. Gawthorpe – một nhà sử học
người Mỹ đang giảng dạy tại Đại học Leiden (Hà Lan) – có lẽ sẽ không tránh khỏi
tranh cãi.
Cụ thể, theo Gawthorpe, qua nhiều năm, một bộ phận
giới học thuật Hoa Kỳ cho rằng quốc gia này đã thành công trong việc hỗ trợ xây
dựng nên một quốc gia vững chãi, có thể vận hành tốt tại miền Nam Việt Nam, và
chỉ vì các quan điểm chính trị khác biệt cùng môi trường phản chiến quá mạnh mẽ
mà Hoa Kỳ buộc phải rút khỏi Việt Nam. Sự thất bại tại Việt Nam, vì vậy, thường
được cho là một thất bại về cam kết quân sự, không phải một thất bại về xây dựng
nhà nước.
Với giả định này, Gawthorpe làm rõ và giới thiệu một
câu chuyện liền mạch về chiến tranh Việt Nam, từ những kỳ vọng chính trị và thất
bại thực tế tại Washington D.C, cho đến những xung đột tại các làng mạc miền
Nam Việt Nam nơi mà Văn phòng Dân sự vụ và Hỗ trợ Phát triển Cách mạng (Office
of Civil Operations and Revolutionary Development Support – thường biết đến với
tên gọi CORDS) hoạt động. Ông khẳng định, với những gì mà Hoa Kỳ đã làm, họ
chưa bao giờ tiến gần tới chiến thắng về mặt xây dựng nhà nước như họ tưởng tượng,
và cũng sẽ rất khó để duy trì một chính thể phi cộng sản độc lập về kinh tế,
chính trị, xã hội tại miền Nam Việt Nam.
Giả dụ, trong một luận điểm, Gawthorpe cho rằng sự yếu
kém của chính quyền Việt Nam Cộng hòa một phần là di sản quản trị của người
Pháp để lại. Các quan chức Pháp thường có xu hướng quản lý vi mô, tức muốn tự
mình kiểm soát mọi thứ ở tận… Paris (theo nhận xét của Alexis de Tocqueville),
vậy nên lực lượng quản trị địa phương Việt Nam, đầu tiên là Quốc gia Việt Nam
và sau đó là Việt Nam Cộng hòa, có lẽ đã chịu ảnh hưởng từ quá trình đào tạo và
tư duy quản trị nhà nước này. Trong khi đó, hệ thống nhà nước địa phương mà
Pháp để lại cũng không hề có kết nối gì với khu vực nông thôn, hệ quả của chiến
dịch ám sát mà Việt Minh thực hiện giai đoạn 1945 và xu hướng tập trung tại các
thành thị nói chung trong khoản thời gian sau đó.
Khó có thể hoàn toàn đồng ý với những thông tin và lập
luận mà Gawthorpe đưa ra, song chúng có những điểm mới về mặt khoa học, lịch sử
rất đáng chú ý mà có thể nhiều bạn đọc sẽ quan tâm.
---------------------------------
Tạm dịch: “Cải cách nông nghiệp hậu 1975 tại Việt
Nam: Chính trị địa phương đã làm chệch hướng nông nghiệp xã hội chủ nghĩa ở miền
Nam Việt Nam như thế nào”.
Tác giả: Dang Trung Dinh
Nhà xuất bản: Đại học Quốc gia Australia
Tác giả: Dang Trung Dinh
Nhà xuất bản: Đại học Quốc gia Australia
Ảnh: anu.edu.au.
Đây là một trong những tác phẩm nghiên cứu quốc tế
quý giá do một tác giả Việt Nam tiến hành. Tiến sĩ Dang Trung Dinh hiện
là nghiên cứu viên của Viện Nghiên cứu Châu Á, Đại học Quốc gia
Australia.
Quyển sách ghi nhận nỗ lực áp đặt cơ chế sản xuất
nông nghiệp tập thể và sự hình thành của các hợp tác xã tại miền Nam Việt Nam
sau năm 1975. Tuy nhiên, cả hai phía của cải cách đều có những vướng mắc nhất định.
Phía chính quyền thận trọng đưa ra các thí nghiệm cải cách vì lo sợ mất đi nguồn
lực ủng hộ mình nồng nhiệt nhất trước giải phóng, trong khi phía nông dân thì
không mặn mà gì với hình thức sản xuất nông nghiệp tập thể với hầu hết các hoạt
động thí điểm đều thất bại và không đạt được bất kỳ kết quả nào cụ thể.
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác biệt vùng
miền nhất định, khi nông dân tại các tỉnh miền Trung (mà theo nghiên cứu của
tác giả tại các tỉnh như Quảng Nam, Đà Nẵng) có xu hướng “phục tùng nhà nước”
cao hơn so với các tỉnh miền Tây và Đông Nam Bộ. Ông Dinh còn nhận xét thêm,
theo nhiều cuộc phỏng vấn trong phạm vi nghiên cứu, các cán bộ đảng, cán bộ
nông nghiệp tại khu vực miền Trung có xu hướng “bôn-sê-vích” và “phát-xít” hơn
cán bộ tại các khu vực khác miền Nam Việt Nam. Điều này khiến cho tỉ lệ tập thể
hóa đất nông nghiệp tại miền Trung đạt được kết quả khả quan nhất trong các
vùng thí điểm.
Giai đoạn 1978 – 1981 được xem là giai đoạn quan trọng
nhất trong quá trình áp đặt, xây dựng cơ sở cho tập thể hóa tại miền Nam Việt
Nam. Tuy nhiên, tại cả miền Nam lẫn miền Bắc, kết quả sản xuất của các hợp tác
xã nông nghiệp dần cho thấy nó không tạo ra được bất kỳ đột phá gì so với hình
thái sản xuất tư nhân trước đó, đặc biệt là tại miền Nam Việt Nam. Vì vậy, sản
xuất nông nghiệp tập thể trở thành một chiến trận ngầm giữa nông dân và các cán
bộ địa phương cũng như các nhà chính sách Việt Nam thời điểm đó. Ông chỉ ra
nông dân tại đồng bằng sông Cửu Long thì né tránh các hoạt động của hợp tác xã
nông nghiệp, tức vẫn tham gia do lo ngại bị chính quyền cô lập, nhưng không bao
giờ thật sự đóng góp hay tham gia vào quá trình sản xuất thật sự của hợp tác
xã. Hay nông dân tại vùng duyên hải miền Trung thì tham gia một cách đông đảo
hơn, nhưng lại làm việc vì “chấm công” hơn là vì sản lượng và
năng xuất, hiện tượng “làm thật ăn cháo, làm láo ăn cơm” vốn
đã trở thành thâm bệnh tại các hợp tác xã miền Bắc.
Điểm người viết cảm thấy không thỏa mãn nhất đối với
nghiên cứu chính là giọng văn và thái độ của tác giả Dinh về quá trình cải cách
ruộng đất sau 1975. Ngay từ tiêu đề, việc sử dụng từ “derailed” (chệch hướng, lệch
hướng) khiến bạn đọc lần đầu tiếp xúc không khỏi có cảm giác ông ủng hộ chính
sách tập thể hóa, và rằng nông dân cùng với kiểu chính trị địa phương đã làm
phá sản kế hoạch tốt đẹp này. Trong bản thân nghiên cứu, việc sử dụng hai giọng
văn và hai thái độ tùy nơi, tùy chỗ không khỏi khiến người đọc có cảm giác tác
giả “tự kiểm duyệt”.
Tuy nhiên, với những thông tin quý giá mà nghiên cứu
mang lại, người viết vẫn ủng hộ bạn đọc nên tham khảo và tìm hiểu tài liệu nói
trên, đặc biệt khi đây là một tài liệu được công bố dưới dạng mở, có thể đọc miễn
phí trên JSTOR.
-----------------------------------
Tạm dịch: “Tranh cãi toàn cầu – Song đề địa
phương: Phá thai dựa trên lựa chọn giới tính ở Việt Nam đương đại”.
Tác giả: Tran Minh Hang
Nhà xuất bản: Đại học Quốc gia Australia
Tác giả: Tran Minh Hang
Nhà xuất bản: Đại học Quốc gia Australia
Ảnh: anu.edu.au.
Cuốn sách này của tác giả Tran Minh Hang, một nghiên
cứu viên khác đến từ Đại học Quốc gia Australia là một nghiên cứu cấp thiết trước
vấn nạn nạo phá thai vì giới tính của thai nhi tại Việt Nam, trong mối tương
quan toàn thế giới. Đây có thể được xem là quyển sách, nghiên cứu hoàn chỉnh đầu
tiên về hiện tượng này tại Việt Nam, đóng góp quan trọng vào việc thấu hiểu nền
tảng và các thảo luận xã hội liên quan đến quyền phụ nữ, quyền sống của thai
nhi và định kiến xã hội về giới tính.
Tập hợp và kể lại câu chuyện của rất nhiều phụ nữ ở
Việt Nam trải qua quá trình nạo phá thai vì lý do giới tính trẻ em, nghiên cứu
lần dấu con đường tâm lý dẫn đến quyết định xác định giới tính và nạo phá thai
vì giới tính, cùng lúc đó thống kê và điều tra về trải nghiệm của người phụ nữ
trước, trong và sau khi thực hiện nạo phá thai. Không chỉ vậy, nghiên cứu còn
tìm hiểu và ghi nhận lại mối liên hệ và sự tương tác giữa những phụ nữ này với
các cá nhân, tác nhân xã hội và các tổ chức y tế thực hành các loại hình phá
thai vì giới tính.
Dựa trên nền tảng thông tin sơ cấp đáng trân trọng
đó, tác giả phân tích và bình luận về những phản hồi và định kiến xã hội vốn cực
kỳ nhạy cảm liên quan đến phá thai dựa trên giới tính thai nhi; cũng như các lỗ
hổng ở khả năng kiểm soát tập trung của nhà nước trong một nền y tế thị trường
hóa.
Đáng quý hơn nữa, nghiên cứu này cũng được Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Australia phát hành miễn phí online (bản
in bìa cứng có giá 48 đô-la Úc), và chắc chắn là một tài liệu không thể thiếu
cho các chuyên gia và bạn đọc quan tâm đến bình đẳng giới cũng như sức khỏe
sinh sản của người Việt Nam.
1 comment:
Chúng tôi hiện đang cung cấp chương trình cho vay DỄ DÀNG và NHANH CHÓNG với lãi suất thấp 2% với thẻ ID hợp lệ và phù hợp để xác minh.
Bạn có thể gửi đơn xin vay của bạn cho bất kỳ số tiền vay cần thiết.
Chúng tôi cung cấp các khoản vay từ $ 5.000,00 USD Tối thiểu. $ 100.000,00 USD Tối đa.
Chúng tôi có tín dụng dài hạn tối đa từ năm (5) đến năm mươi (50) năm.
Chúng tôi cung cấp các loại khoản vay sau: vay dự án, vay tái cấp vốn, vay đầu tư thương mại, vay mua ô tô hoặc xe, vay sinh viên, hợp nhất nợ,
cho vay mua nhà, cho vay cá nhân, cho vay du lịch và nghỉ mát, Giáng sinh và các khoản vay năm mới.
Công ty chúng tôi cũng cần một người có thể là đại diện của công ty chúng tôi ở nước bạn.
Liên hệ với văn phòng của CÔNG TY CHO VAY TÀI CHÍNH CROWN TRUST qua email: crowntrustfinancialloanfirm@gmail.com
Gửi yêu cầu trả lời ngay lập tức của bạn đến: crowntrustfinancialloanfirm@gmail.com
Cảm ơn bạn đã bảo trợ của bạn!
Thành công của bạn bắt đầu với chúng tôi: JEFFEREY FRANK!
GIÁM ĐỐC CROWN TRUST VAY TÀI CHÍNH!
Email: crowntrustfinancialloanfirm@gmail.com
Post a Comment