Văn học miền Nam: Từ
bức tử tới phục sinh
https://luatkhoa.com/2025/06/van-hoc-mien-nam-tu-buc-tu-toi-phuc-sinh/
HÌNH :
https://luatkhoa.com/wp-content/uploads/2025/06/bai-co-Trung-Duong-2048x1152.jpg
Những
hình ảnh quen thuộc của đời sống văn hóa tại Sài Gòn trước 1975 (Nhà sách Khai
Trí trên đường Lê Lợi trước 1975; Chợ sách cũ đường Đặng Thị Nhu). Hình ảnh
thanh niên tuần hành với Chiến dịch Bài trừ Văn Hóa Đồi Trụy sau 1975. Đồ họa:
Thanh Tường/Luật Khoa.
Bài viết tổng kết các lý do dẫn đến thành
quả của văn học miền Nam từ 1954 tới 1975, thuật lại những động thái khai tử
văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn
nghệ sĩ. Sau cùng là vài chia sẻ về những nỗ lực cá nhân và tự nguyện của tác
giả để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại.
Vừa
đúng nửa thế kỷ trước, vào ngày 30 tháng Tư năm 1975, nền dân chủ duy nhất
trong lịch sử Việt Nam cáo chung sau vỏn vẹn có 20 năm hiện hữu trước làn sóng
xâm lăng của chủ nghĩa cộng sản. Gọi là nền dân chủ duy nhất ta có được vì suốt
mấy ngàn năm tồn tại, Việt Nam nếu không nằm dưới chế độ quân chủ chuyên chế
thì cũng bị đô hộ bởi ngoại bang, và từ 50 năm nay dưới một chế độ độc tài đảng
trị.
Dù
ngắn ngủi và phải xây dựng một quốc gia mới mẻ vừa thoát khỏi hơn 80 năm bị
Pháp đô hộ, lại trong một cuộc chiến tàn khốc chống lại cộng sản chủ nghĩa để bảo
vệ tự do, song miền Nam đã đạt được những thành quả đáng kể về nhiều phương diện:
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và, đặc biệt hơn cả là giáo dục và văn học,
nhất là văn học – một bộ môn ta có thể đo lường được qua tài liệu hiện còn được
lưu trữ tại thư viện Quốc hội Hoa Kỳ và các trường đại học Mỹ, và từ hai thập
niên qua trên Liên mạng [tức là Internet – BTV] nhờ những nỗ lực
hoàn toàn cá nhân và tự nguyện.
Văn
học miền Nam vẫn tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt
bớ, cầm tù, đày đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm
lĩnh miền Nam. Chẳng những hồi sinh và tồn tại mà nền văn học ấy đã và đang trở
thành niềm cảm hứng cho các thế hệ người Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà
còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới có thể gặt
hái được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như
vậy.
Bài
viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20
năm, từ năm 1954 tới năm 1975 – một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể
nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu
thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch
thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt Cộng. Và kế là những nỗ lực
cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở
thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ người Việt yêu chuộng văn chương chữ nghĩa.
20
năm văn học tự do phát triển giữa thời chiến
Năm
1954, đất nước bị chia đôi, dẫn đến việc miền Bắc bị lọt vào quỹ đạo của chủ
nghĩa cộng sản, gần một triệu người miền Bắc di cư vào Nam, cùng với sự hình
thành của một quốc gia mới, Việt Nam Cộng hòa, đặt trên nền tảng dân chủ tự do
thực chất – dù là tương đối – chứ không chỉ hiện diện trên giấy tờ như ở miền Bắc.
Người
Bắc di cư vào Nam cũng đồng thời mang theo với họ toàn bộ nền văn học tiền chiến
đã bị Đảng Cộng sản triệt tiêu tại miền Bắc. Cùng với người miền Nam, họ còn
giúp duy trì văn nghệ phẩm của nhóm Nhân văn – Giai phẩm, vốn xuất
hiện ngắn ngủi tại miền Bắc vào giữa thập niên 1950, khi các văn nghệ sĩ đòi
quyền tự do sáng tác song đã bị chính quyền Cộng sản đàn áp và bóp nghẹt. Tác
phẩm của họ đã “vượt tuyến” vào Nam và được học giả Hoàng Văn Chí xuất bản
thành tuyển tập “Trăm hoa
đua nở trên đất Bắc”, cuốn sách đã ảnh hưởng sâu đậm nơi người viết bài này
khi mới ở tuổi đôi mươi.
Nhà
phê bình Thụy Khuê, khi bàn về các nguyên nhân dẫn tới sự phát triển mạnh mẽ và
phong phú trong vòng 20 năm của văn học miền Nam trong bài tiểu luận “Văn học miền
Nam” (2007) đã nêu ra ba yếu tố, như một chiếc kiềng ba chân.
“Miền
Nam […] có truyền thống quốc ngữ lâu đời, và chính tiếng Nam cũng lại là một
nguồn ngôn ngữ đa dạng, đầy âm thanh và màu sắc đối với những nhà văn Bắc di
cư; nhiều người đã dựa vào kho tàng mới này để làm giàu thêm cho ngôn ngữ văn
chương của mình. Tóm lại, nhờ ba yếu tố:
1.
Dựa trên nền móng quốc ngữ từ cuối thế kỷ XIX, cộng thêm tiếng Nam như một kho
tàng ngôn ngữ mới,
2.
Nhờ sự bảo tồn văn học tiền chiến và bảo lưu Nhân Văn Giai Phẩm trong thời kỳ
chia đôi đất nước mà miền Nam không bị cắt đứt với quá khứ và hiện tại văn học
của cả nước.
3.
Nhờ sự nối kết với các trào lưu văn học và tư tưởng nước ngoài.
Mà
miền Nam đã xây dựng được một nền văn học đa dạng trong hoàn cảnh chiến tranh
và bất ổn chính trị.”
Đấy
là nền móng mà trên đó văn học miền Nam được xây dựng. Nền văn học đó phát triển
mạnh mẽ còn nhờ ở hệ thống giáo dục của Việt Nam Cộng hòa dựa trên nền tảng
nhân bản, dân tộc và khai phóng.
Thế nào là
một nền giáo dục dựa trên triết lý nhân bản, dân tộc và khai phóng?
Ít
ai có thể trả lời câu hỏi này rõ ràng hơn Giáo sư Lê Xuân Khoa, nguyên là một
chứng nhân của lịch sử giáo dục tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Ông từng
giữ chức thứ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa và đã tham gia Hội nghị Giáo
dục Toàn quốc họp bàn dẫn đến triết lý giáo dục đó vào khoảng năm 1956 – thời
điểm một năm sau khi chính thể Cộng hòa ra đời. Trong một cuộc hội luận trên Đài Á châu Tự do (RFA) vào
năm 2018, ông nói:
“Nhân
bản tức là nói về con người, lấy con người làm cơ sở cứu cánh. Cho nên, nền
giáo dục phải chú trọng đến con người và phát triển con người toàn diện, một
con người với giá trị phổ quát của nhân loại. Trong khi nói về tính cách với cơ
sở nhân loại như vậy thì vẫn phải có cá tính của Việt Nam, là cá tính dân tộc.
Nuôi dạy một đứa bé từ nhỏ đến lớn thành một trí thức thì trí thức đó có cơ sở
của nhân loại và có cơ sở của Việt Nam để đóng góp vào cộng đồng nhân loại. Đó
là đặc tính dân tộc. Và thứ ba là vấn đề khai phóng, chuyên về khoa học nhiều
hơn. Bởi vì Việt Nam trong hoàn cảnh là một quốc gia chậm tiến, hay bây giờ người
ta dùng chữ đẹp đẽ hơn, gọi là quốc gia đang phát triển, do đó khai phóng là mở
cửa ra đón nhận tất cả những tinh hoa, đặc biệt về khoa học công nghệ thế giới,
nhất là của Tây phương. Đón nhận như vậy thì vừa có cơ sở nền tảng con người
nhân bản, vừa có đặc tính của dân tộc Việt Nam và vừa đón nhận được khoa học tiến
bộ của Tây phương thì con người như vậy là con người toàn diện.”
Chính
triết lý giáo dục này đã hun đúc thế hệ lớn lên vào thời Cộng hòa và giúp tạo
nên một lớp người cầm bút trẻ – trong đó có người viết bài này – thấm nhuần
không chỉ những hương hoa của văn học tiền chiến mà còn của văn chương cổ điển
Việt đượm tính nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, bên cạnh những tác phẩm văn học cũng
như triết học của các tác giả quốc tế qua các bản dịch của một thế hệ cầm bút
thiết tha với việc truyền bá kiến thức nhằm hun đúc các thế hệ hữu ích cho
tương lai đất nước.
Nhìn
từ khía cạnh thực tiễn, nền giáo dục ấy cũng đã xây dựng nên một cộng đồng độc
giả rất cần thiết để giúp nuôi dưỡng duy trì ngành xuất bản, các nhà viết sách
giáo khoa cũng như văn học.
HÌNH
:
Những
hình ảnh quen thuộc của đời sống văn hóa tại Sài Gòn trước năm 1975.
Theo
tạp chí Luật Khoa, trong phim tài liệu ngắn song cô đọng trên YouTube thì vào
năm 1975, Nam Việt Nam có cả thẩy [tức “cả thảy” – BTV] khoảng 900 nhà in, 180
nhà xuất bản (so với 21 nhà cùng thời của miền Bắc), mỗi năm xuất bản hơn 1.000
tựa sách. Theo nhà giáo kiêm nhà văn Đoàn Thêm, tác giả của bộ sách gồm nhiều
cuốn Chuyện từng ngày, thì riêng từ năm 1961 đến năm 1963 thấy ra mắt
2.624 nhan đề, nhiều nhất là tiểu thuyết và thơ, với tổng cộng 546 cuốn. Năm
1965, năm 1970, và năm 1973 cho thấy tổng cộng 96.000 tấn giấy nhập cho hơn 700
nhà in, in ra 86 triệu cuốn sách, trong đó 20 nhà in lớn có nhà in tới một triệu
cuốn.
Với
một số lượng nhà in, nhà xuất bản và sách như vậy, mặc dù một số lớn là sách
giáo khoa, song ta cũng có thể hình dung đời sống văn học cũng nhờ đó mà phát
triển. Điều hiển nhiên là trước năm 1975, nhiều người cầm bút ở miền Nam đã có
thể sinh sống hoàn toàn bằng nghề viết văn. Đặc biệt hơn cả là giới phụ nữ trước
kia vốn chả bao giờ dám nghĩ mình có thể kiếm sống bằng ngòi bút, mà lại là viết
tiểu thuyết nữa. Do vậy mà ta thấy trong văn học miền Nam có một hiện tượng nổi
bật là sự xuất hiện của những cây bút phụ nữ chuyên nghiệp kiếm sống, và lại
còn nuôi được cả gia đình nữa, bằng nghề cầm bút viết truyện, như Bà Tùng Long,
Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, và Nguyễn Thị Thụy Vũ. Tôi có viết một bài
chi tiết về “Phụ nữ viết văn thời Cộng hòa” tại đây.
Nhà
văn Võ Phiến, qua cuốn đầu Văn học miền
Nam: Tổng quan (trong bộ sách gồm bẩy [tức “bảy – BTV] cuốn), nhà xuất
bản Văn Nghệ in lần đầu năm 1986, tái bản lần thứ hai năm 2000 với phần cập nhật
ở Phụ lục về chiến dịch đốt sách của Cộng sản, ghi lại khá chi tiết về sinh hoạt
văn học của miền Nam trước năm 1975.
Trong
phần “Tác phẩm và tác giả” ở cuối sách, ông đã liệt kê danh sách và tiểu sử của
khoảng 360 nhà văn, một phần lớn thuộc thế hệ trưởng thành sau năm 1954. Ngoài
ra, có một số vị viết từ trước khi có cuộc di cư năm 1954 song vẫn tiếp tục viết,
có lẽ còn hăng say hơn do bầu không khí cởi mở và có thể cũng vì nhu cầu của
người đọc, từ đấy tiếp tay xây dựng nền văn học của miền Nam thêm rực rỡ, phong
phú, cả bề dầy [tức “dày” – BTV ]lẫn bề sâu.
Kể
từ đầu thập niên 1960, Cộng sản Bắc Việt khởi động chiến dịch tiến chiếm Nam Việt
Nam qua công cụ Mặt trận Giải phóng miền Nam, mà cao điểm là vụ tấn công Tết Mậu
Thân năm 1968, mặc dù cả hai bên đã đồng ý ngưng chiến trong ba ngày Tết để dân
chúng ăn Tết. Hàng loạt thành phố bị tấn công, hàng ngàn dân vô tội bị thảm sát
ở Huế.
Rồi,
mặc dù hiệp định ngưng bắn đã được long trọng ký kết ở Paris năm 1973, chiến
tranh vẫn tiếp diễn với việc Bắc quân đem hàng trăm xe tăng tràn qua vùng phi
quân sự tại Bến Hải tấn công Quảng Trị, đe dọa Huế, song song với mặt trận Bình
Long – An Lộc, lính hai bên và dân chúng chết hàng loạt.
Cuộc
tấn công này đã dẫn đến sự kiện khoảng 2.000 dân chạy loạn bị thảm sát khi đại
bác của Cộng sản từ trên rặng Trường Sơn nã xuống quãng Quốc lộ số 1 ở Mỹ
Chánh, xác người gồm nhiều thường dân, đàn bà và trẻ em nằm la liệt dãi dầu mưa
gió suốt mấy tháng trời vì đang còn giao tranh nên thân nhân không được vào tìm
xác.
Khi
nhật báo Sóng Thần phát động chiến dịch quyên tiền để hốt xác và chôn cất nạn
nhân chiến cuộc, tôi đã có dịp chứng kiến những xác người gồm nhiều phụ nữ và
trẻ em trên quãng đường có hỗn danh là “Đại lộ Kinh hoàng” này. Mời xem bài tường
thuật cùng nhiều tài liệu liên hệ tại đây.
Mặc
dù chiến tranh, khói lửa, chết chóc, chia lìa, văn học miền Nam, nhờ có tự do
và không bị chỉ đạo phải viết cái gì và viết ra sao, đã hồn nhiên khai thác và
diễn tả tình tự cảm-nghiệm-sao-viết-ra-vậy của con người thời chiến. Đó là thời
kỳ của những Đêm nghe tiếng đại bác, những “Em hỏi anh bao giờ
trở lại”, những Ngày mai đi nhận xác chồng, những “Mẹ
già lên núi tìm xương con mình”, và nhiều nữa; nếu không là thơ văn ca
nhạc phản chiến, mong mỏi hòa bình bằng mọi giá để được Nối vòng tay lớn;
hoặc trốn tránh thế tục Lên non tìm động hoa vàng. Thôi thì đủ cả,
như một cánh đồng hoa dại đủ loại đủ mầu [tức “màu” – BTV].
Cách
đây vài năm, trong một buổi hội luận trực tuyến với một số bạn trẻ về
văn học miền Nam qua kinh nghiệm của cá nhân người viết, một tham dự viên hỏi
tôi, đại khái, là tôi có nghĩ là văn học nghệ thuật của miền Nam đa phần ủy mị,
bi lụy đã phần nào tiếp tay cho sự sụp đổ của miền Nam, tôi đáp có thể có một
phần nào đó trong số vô vàn lý do dẫn tới sự tan hàng này. Em đó lại hỏi, nếu
cho đi lại thì liệu người cầm bút có nên tránh viết những điều bi quan yếm thế
hoặc ủy mị như thế. Tôi đáp là làm sao nói khác đi được những cảm nghĩ thực của
mình, và đó cũng là cái giá phải trả cho việc nói thực. Em hỏi tôi mấy câu đó
là một người sinh trưởng ở Hà Nội, sau đó điện thư cho tôi nói muốn ứa nước mắt
khi nghe tôi trả lời.
Chiến
dịch bức tử văn học miền Nam
Học
giả Nguyễn Hiến Lê, người tình nguyện ở lại trong nước sau năm 1975 và vốn sẵn
cảm tình với những người Cộng sản, đã trở thành nhân chứng của chiến dịch triệt
tiêu nền văn hóa miền Nam sau 1975, do đấy nhận xét của ông có tính xác tín
đáng kể. Trong cuốn Hồi ký: Tập III của bộ sách gồm ba cuốn do
nhà xuất bản Văn Nghệ phát hành năm 1988 (ấn bản duy nhất trung thực với bản thảo
do tác giả gửi lén thẳng ra hải ngoại in ngay sau khi hoàn tất bản thảo), ông
Lê viết, nơi trang 74-80, về chiến dịch đốt và tịch thu sách vở miền Nam như
sau, xin ghi lại đây cho độc giả nào không tiện truy khảo trực tiếp:
“Một
trong những công việc đầu tiên của chính quyền là hủy tất cả các ấn phẩm (sách,
báo) của bộ Văn hóa ngụy, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Ðôn, thơ Cao
Bá Quát, Nguyễn Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Năm 1976 một ông thứ
trưởng Văn hóa ở Bắc vào thấy vậy, tỏ ý tiếc.
Nhưng
ông thứ trưởng đó có biết rõ đường lối của chính quyền không, vì năm 1978,
chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc hủy sách đó mà còn cho là nó
chưa được triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về
khoa học tự nhiên, về kỹ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết,
sử, địa lý, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ
Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm… in ở trong Nam đều
phải hủy hết ráo.
Năm
1975, sở Thông tin văn hóa thành phố Hồ Chí Minh đã bắt các nhà xuất bản hễ
sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để kiểm duyệt: sau mấy
tháng làm việc, họ lập xong một danh sách mấy chục tác giả phản động hay đồi trụy
và mấy trăm tác phẩm bị cấm, còn những cuốn khác được phép lưu hành. Nhưng đó
chỉ là những sách còn ở nhà xuất bản, những sách tuyệt bản còn ở nhà tư nhân
thì nhiều lắm, làm sao kiểm duyệt được? Cho nên sở Thông tin văn hóa ra chỉ thị
cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi trụy trong mỗi nhà để
đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc,
mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy
sách Pháp, Anh là lượm, bất kỳ loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết,
chẳng kể nội dung ra sao. Họ không thể vào hết từng nhà được, ghét nhà nào, hoặc
công an chỉ nhà nào là vô nhà đó… Lần đó sách ở Sài Gòn bị đốt kha khá. Nghe
nói các loại đồi trụy và kiếm hiệp chất đầy phòng một ông chủ thông tin quận,
và mấy năm sau ông ấy kêu người lại bán với giá cao.”
Ông
Lê, một người cầm bút chân chính và, như đã kể, là nhân chứng của giai đoạn chế
độ cộng sản tận diệt nền văn học miền Nam tự do này, viết tiếp:
“Lần
thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị ‘ba hủy’, chỉ được
giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải hủy hết, vì nếu không phải
là loại phản động (một hủy), thì cũng là đồi trụy (hai hủy), không phải phản động,
đồi trụy thì cũng là lạc hậu (ba hủy), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn,
nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lý… Mọi người hoang mang, gặp
nhau ai cũng hỏi phải làm sao. Có ngày tôi phải tiếp năm sáu bạn lại vấn kế.”
Ảnh flickr.com, trên, và YouTube Luật Khoa, dưới.
Ông
Lê cho biết thêm:
“Ruồng
bố tịch thu đốt sách của văn học miền Nam thôi chưa đủ, chính quyền Cộng sản
còn bắt bớ bỏ tù một số khoảng 30 người cầm bút tên tuổi của miền Nam mà họ gọi
là ‘gián điệp’, ‘tuyên truyền phản cách mạng’, là ‘biệt kích văn nghệ’.”
Vài
trong số các nhà văn miền Nam bị Cộng sản gán cho nhãn “biệt kích văn nghệ” và
bị bắt tù khổ sai nhiều năm, trừ nhà văn Mai Thảo trốn thoát ra nước ngoài.
(Trích video từ kênh YouTube Luật Khoa tạp chí)
Đối với các văn nghệ sĩ còn lại thì chính quyền
Cộng sản ra lệnh cho họ phải tham dự các khóa “Bồi dưỡng chính trị cho văn nghệ
sĩ miền Nam”, mỗi khóa kéo dài nhiều tháng. Trong khi đó, hàng chục cuốn sách
đã được những cây bút Cộng sản và các tay nằm vùng tại miền Nam viết ra lên án
văn nghệ sĩ miền Nam là Những Tên Biệt Kích Của Chủ Nghĩa
Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn-Hóa Tư Tưởng, như tựa đề của một cuốn sách,
những kẻ có tội với nhân dân vì đã làm tay sai cho thực dân mới (Mỹ) viết và phổ
biến loại “văn hóa nô dịch, đồi trụy, lai căng, cực kỳ phản động” nhằm đầu độc
nhân dân.
Theo
Nguyễn Vy Khanh, tác giả của bộ sách hai cuốn dầy [tức
“dày” – BTV] tổng cộng 1.600 trang, Văn học Miền Nam 1954-1975, thì
từ năm 1975 đến năm 1979 có gần 20 cuốn sách chửi bới phê bình văn học nghệ thuật
thời Cộng hòa là “văn học tay sai nhưng đáng sợ như những trái
bom!” Ông viết:
“Vào
tháng 3-1981, nhà cầm quyền Hà-Nội ra hẳn một cuốn danh mục mới gồm 122 tác giả
với toàn bộ tác phẩm bị cấm lưu hành. Trong chiến dịch lên án và triệt hạ này,
theo thống kê chính thức năm 1981, trong chiến dịch đợt 3 vào tháng 6 năm 1981
chính quyền cộng-sản đã tịch thu trên toàn quốc 3 triệu đơn vị ấn phẩm trong đó
316,314 sách báo bị cấm; riêng ở Sài-gòn 60 tấn sách (151,200 cuốn), 41,723 cuộn
băng nhạc, 53,751 bức tranh, 631 cuộn phim. v.v. Đồng thời khám phá ra 205 nhà
in bí mật (Theo Trần
Thọ, Tạp-chí Cộng-Sản 10-1981).”
Bấy nhiêu
nỗ lực để tận diệt văn học miền Nam tự do ấy, số phận của nó đã ra sao? Một nhà văn lớn của
miền Nam ngay từ dạo ấy đã tiên đoán số phận của văn học miền Nam rồi sẽ như thế
nào. Nhã Ca, tác giả Đêm nghe tiếng đại bác và Giải
Khăn Sô Cho Huế, kể lại những điều
mắt thấy tai nghe trong bài nói chuyện tại buổi hội thảo về kinh nghiệm
kiến quốc trong thời chiến của Việt Nam Cộng hòa tại Đại học UC Berkeley cuối
năm 2016:
“Đó
là một buổi trưa mùa xuân, ở một ngã ba trong khu cư xá Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận,
có cảnh công an khu vực huy động thanh thiếu niên đốt sách. Nơi đốt sách là con
đường ngay xế cửa nhà anh Nguyễn Mạnh Côn. Đứng cùng chúng tôi trên bao lơn lầu
một, nhìn xuống cảnh đốt sách, anh Côn cười cười bảo, ‘Rồi các cậu coi. Chữ
nghĩa bọn nhà văn miền Nam, tiếng hát của nghệ sĩ miền Nam, các anh có đốt tới
Tết Công Gô cũng chẳng ăn thua gì.’ Chỉ tuần lễ sau đó có cuộc hành quân
công an qui mô chưa từng thấy. Đêm mùng 3 tháng 4 năm 1976, hàng trăm văn nghệ
sĩ Sài Gòn bị bắt giam. Anh Côn, chúng tôi, cả vợ lẫn chồng, đều đi tù, đi đầy
[tức ‘đày’ – BTV].”
Nhã
Ca, người bị cầm tù hai năm rồi được thả về để lo cho bầy con còn nhỏ trong khi
chồng của chị là nhà thơ/nhà báo Trần Dạ Từ ở tù 12 năm, kể tiếp là khi còn bị
giam tại một nơi tập trung văn nghệ sĩ ở Gia Định:
“Có
lần bọn tù văn nghệ sĩ bị lùa lên xe, đưa đến ‘Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy’ để
‘học tập’. Khu triển lãm là một giảng đường đại học cũ, tội ác được trưng bày
là những cuốn sách của văn học miền Nam. Trong số này có cả sách Nhã Ca. Cuốn Giải Khăn Sô cho Huế được
treo cao. Tất cả bọn tù nhà văn chúng tôi cùng đứng nghiêm. Nhìn thẳng. Lặng lẽ.
Trân trọng chào tác phẩm của mình và bạn hữu.
Sức
mạnh văn hóa từ sách báo Sài Gòn đúng là có thể thức tỉnh những người bị lừa phỉnh,
như nhà văn nữ miền Bắc vào giải phóng miền Nam đã kể. […] Ngày đầu vào ‘giải
phóng Sàigòn’, ngay khi được nhìn thấy những cuốn sách của miền Nam, chị khóc
vì hiểu mình bị lừa, nhiều thế hệ bị lừa. Tôi tin điều chị viết. Như con người,
như đường phố, ruộng vườn, văn hóa, văn học nghệ thuật miền Nam là loại thành tựu
đã hiện ra ngay trong sự sụp đổ. Và ngày càng rõ hơn. Không cách gì xóa nổi.”
Không
chỉ mình người sau này trở thành tác giả Thiên Đường Mù, tác phẩm
đã đưa Dương Thu Hương chính thức lên hàng tác giả nổi tiếng, mà cả những đồng
nghiệp của bà cũng bị lôi cuốn bởi cả rừng văn nghệ phẩm đầy tình tự của miền
Nam nữa.
Patrick
James Honey, học giả người Anh thông thạo tiếng Việt và là chuyên gia về Việt
Nam, viết trong một bài báo mang tựa đề “Việt Nam mới: Chủ nghĩa cộng sản và
tham nhũng cùng tồn tại” đăng trên tờ London Telegraph xuất bản trong thời kỳ
triệt tiêu văn hóa phẩm của miền Nam này, bài báo đã được tạp chí Luật Khoa
trích dẫn, như sau:
“Hàng
trăm tấn sách ‘được [chế độ] chấp thuận’ đã được gửi vào từ miền Bắc [để
phổ biến trong dân chúng của miền Nam], tất cả đều được xuất bản dưới chế độ
cộng sản ở đó, mặc dù một trong những điều oái oăm của Sài Gòn là cảnh tượng
các cán bộ miền Bắc say mê đọc những cuốn sách bị cấm mà họ đã, một cách bất hợp
pháp, cứu khỏi bị tiêu hủy và còn giới thiệu chúng cho các đồng nghiệp nữa.”
Bài
báo của học giả Anh chuyên gia Việt Nam Patrick James Honey. Phần trong vòng
tròn mầu đỏ nói về tình trạng sách báo của miền Nam sau ngày 30 tháng 4, 1975.
(Trích YouTube Luật Khoa)
Tóm lại, có thể nói văn học miền Nam đã có dịp
len lỏi vào ngự trị trong tâm khảm thế hệ đi “giải phóng” miền Nam, để thấy là
chính họ mới là thật sự được giải phóng khỏi một đời bị tuyên truyền nhồi sọ.
Thế
nên không có gì là lạ khi, vào giữa thập niên 1980, được chế độ tạm “cởi trói”
nhằm giảm bớt sức ép xã hội lên chế độ vì kinh tế suy sụp trầm trọng, giới cầm
bút trong nước đã nhờ đó tiếp nối công trình bị buộc phải bỏ dở của nhóm Nhân
văn – Giai phẩm. Họ giấy nên một phong trào mà đồng nghiệp của họ ở hải ngoại
đã chào đón và mệnh danh, như tựa đề của một bộ sách dầy [tức “dày” – BTV] 797 trang,
là Trăm hoa vẫn nở trên quê hương, với những sáng tác rút ra từ tâm
can sâu thẳm của người cầm bút và những mô tả đầy tính hiện thực.
Các
nỗ lực phục hồi văn học Miền Nam
Vào
cuối thập niên 2000 trước thời Internet bùng phát, nhà phê bình trong nước
Vương Trí Nhàn, một người vẫn quan tâm tới văn học miền Nam mà ông đã có dịp tiếp
xúc (lén) từ nhiều năm trước 1975, tỏ ý quan ngại, trong một dịp chuyện trò với nhà phê
bình Thụy Khuê, là nếu không sưu tầm gom góp mau thì nền văn học này sẽ bị thất
thoát mai một đi mất. Đó là cái nhìn trong bối cảnh Việt Nam còn nhiều ngăn cấm
e dè đối với văn học miền Nam, dù đã trên ba thập niên kể từ ngày chế độ điên
cuồng đốt hủy văn nghệ phẩm miền Nam, chửi bới lên án và cầm tù đầy [tức “đày”
– BTV] đọa các tác giả của chúng.
Thực
tế, ngay từ những năm đầu tị nạn tại Hoa Kỳ và rải rác tại các nước tự do khác
trên thế giới đã đưa tay đón nhận họ, nhiều nỗ lực đã có nhằm bảo tồn văn nghệ
phẩm ra đời thời Cộng hòa. Vào những thập niên đầu, người Việt tị nạn một mặt cố
gắng xây dựng lại đời sống trên mảnh đất quê hương thứ hai, trong khi nuôi dậy
[tức “dạy” – BTV] con cái, vun sới [tức “xới” – BTV] gia đình, và có một dạo
còn cung cấp cho người thân, bằng hữu còn kẹt lại sống thiếu thốn mọi sự; họ đồng
thời, vào giờ rảnh rỗi và dịp cuối tuần, tập hợp nhau, người bàn chuyện quang
phục quê hương; kẻ nói chuyện bảo tồn lịch sử và văn hóa đã bị cộng sản tàn
phá, hủy hoại ở quê nhà – cũng là một phương thức quang phục quê hương khi các
giá trị dân tộc và nhân bản đang trên đà thoái hóa nơi quê nhà. Những hoạt động
này đã giúp nối kết người Việt hải ngoại không chỉ ở Mỹ mà còn ở khắp thế giới
lại với nhau.
Bên
cạnh đó, là những nỗ lực phục hưng văn học miền Nam, phần lớn tự nguyện, song
phải nói là phong phú, xuất hiện dưới hình thức sách báo, băng đĩa nhựa, hình ảnh,
bầy [tức “bày’ – BTV] bán khắp nơi. Những tác phẩm bị cộng sản cấm đoán, tịch
thu, đốt hủy cũng đã được chụp và tái bản ở hải ngoại, ngay cả những bộ sách của
thời tiền chiến được tái bản ở miền Nam trước 1975 cũng theo chân chúng ta ra hải
ngoại, được chụp và in lại. Và hồi ký đủ loại đề tài phong phú của nhiều người
viết thuộc mọi thành phần trong và ngoài nước, đặc biệt là các hồi ký của nhiều
người đã từng là đảng viên cộng sản nay tỉnh ra.
May
mắn cho chúng ta là nhờ kỹ thuật Internet ra đời và trở nên phổ biến từ khoảng
30 năm nay, sinh hoạt phục sinh và bảo tồn văn học nghệ thuật của cộng đồng lưu
vong Việt ngày càng nở rộ. Tôi đã tường thuật chi tiết các nỗ lực này
trong bài này, nhằm giới thiệu sơ
qua những trang điện tử hiện lưu giữ một số lượng đáng kể sách báo xuất bản thời
Cộng hoà.
Buổi
hội thảo về văn học miền Nam tại Westminster, California, 2014. (Ảnh tư liệu
Trùng Dương)
Ngoài
ra, từ một thập niên trở lại đây, nhờ công trình nghiên cứu học thuật của một số
giáo sư trẻ gốc Việt tại các trường đại học tại Hoa Kỳ, cộng đồng người Việt tại
Mỹ và, qua Internet, tại các nơi trên thế giới và cả ở Việt Nam, biết được về
công cuộc kiến quốc trong thời chiến của Việt Nam Cộng hòa qua các lãnh vực
chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục và văn học nghệ thuật. Đây là một phần lịch
sử không thể thiếu trong bộ lịch sử mấy ngàn năm của Việt Nam. Công trình này
tôi cũng đã trình bầy [tức “bày” – BTV] chi tiết trong bài trên. Tiếc là cho đến bây
giờ, sau nửa thế kỷ, chế độ Hà Nội vẫn còn nhiều e ngại để công khai chấp nhận
quả đã có một thời Cộng hòa dân chủ phát triển như thế đó—một mảng lịch sử
không thể thiếu trong toàn bộ sử Việt.
HÌNH
:
Cuộc
hội thảo về công cuộc kiến quốc trong thời chiến của Việt Nam Cộng hòa
1955-1975 tại trường Đại học UC Berkeley, tháng 10 năm 2016. Trái, bích chương
cuộc hội thảo; giữa và phải, hai diễn giả trình bày phần nghiên cứu một số sinh
hoạt dân sự tại miền Nam trước 1975. (Ảnh tư liệu Trùng Dương)
Trong
một bài viết ngắn vài ngàn chữ nhân tưởng niệm 50 năm ngày đất nước và dân Việt
chúng ta đổi đời, dù cố gắng thu gọn vào một góc cạnh đời sống là văn học nghệ
thuật, người viết cũng chỉ có thể hy vọng đây sẽ là bài viết gợi ý và gợi hứng
cho những nghiên cứu sâu xa hơn của các thế hệ tương lai.
Văn
học miền Nam: một vòng tử sinh trên quê hương
Để
kết thúc bài này, tưởng cũng nên duyệt qua một sự kiện tích cực đã và đang diễn
ra trong nước. Đó là khoảng 10 năm trở lại đây chúng ta đã thấy có sự chuyển động
tích cực đặc biệt đối với nền văn học mà chế độ cộng sản đã có một dạo quyết liệt
xóa bỏ. Như thể những hạt giống ươm nơi các thanh niên thế hệ đi “giải phóng”
miền Nam dạo nào đã nẩy [tức “nảy” – BTV] mầm và đang dần phát triển.
Chẳng
những một số sách của các tác giả miền Nam đã được in lại và phổ biến (nguyên
văn hay có duyệt cắt tôi không biết), mà một số nghiên cứu học thuật cũng đã và
đang được thực hiện. Đây là điều đáng mừng cho nền văn học Việt Nam nói chung.
Về
nghiên cứu học thuật liên quan đến văn học miền Nam, đó đây đã có những nghiên
cứu về một số khía cạnh của văn học miền Nam. Đáng chú ý, chẳng hạn như hội nghị về Văn
học và Báo chí tại Việt Nam Cộng hòa (1955-1975) và Việc Tiếp nhận Tư tưởng
phương Tây do Universitat Hamburg tài trợ năm 2021. Hàng chục học giả
từ Việt Nam và hải ngoại đã đóng góp cho chương trình trực tuyến này với các
bài nghiên cứu của họ về nhiều khía cạnh của chủ đề này. Bảng các đề tài thuyết
trình có thể tìm thấy tại đây.
Công
trình nghiên cứu toàn phần về một bộ môn có lẽ phải kể tới luận án tiến
sĩ Lý luận phê bình văn học đô thị miền Nam 1954-1975 của Trần
Hoài Anh nạp cách đây trên 10 năm. Tập luận án sau này được tác giả soạn lại và
xuất bản thành sách dưới tựa đề Lý
Luận-Phê Bình Văn Học Miền Nam 1954-1975 – Tiếp Nhận Và Ứng Dụng, với
cụm từ “văn học đô thị” bị loại bỏ vì tầm nhìn phiến diện và lỗi thời. Được
biết cuốn sách vừa được Giải thưởng Phê bình của Hội Nhà văn Việt Nam.
Trả
lời trong một cuộc phỏng vấn, Trần Hoài Anh, giảng
viên Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa TP.HCM, cho biết:
“Từ
hơn chục năm trước chọn đề tài ‘Lý luận phê bình văn học đô thị miền Nam
1954-1975’ để làm luận án Tiến sĩ, với tôi là một điều khá mạo hiểm, Nhưng có lẽ
nhờ sự thay đổi hệ hình tư duy nghiên cứu văn học của thời kỳ đổi mới khi hàng
loạt các hiện tượng văn học thuộc vào loại cấm kỵ như Phong trào thơ mới, Tự lực
văn đoàn, Nhân văn giai phẩm… đã được nhìn nhận, đánh giá lại và được ‘chiêu
tuyết’ trong đời sống văn học, cho nên việc chọn đề tài luận án của tôi cũng
không gặp trở ngại gì.
Đây
là một tín hiệu đáng mừng cho đời sống văn học dân tộc khi mà văn học miền Nam
trước 1975, vốn bị xem là ‘văn học đồi trụy’ ‘phản động’ như một số người đã
gán ghép cho nó ở một thời không xa, nay lại được chính thức nghiên cứu ‘đàng
hoàng’ trong môi trường học thuật ở một viện nghiên cứu khoa học uy tín là Viện
văn học Việt Nam. Đồng thời, việc văn học miền Nam trước 1975 xuất hiện lại
trong đời sống văn học nước nhà là một điều tất yếu trong sự vận động và phát
triển của việc thay đổi hệ hình tư duy lý luận phê bình văn học thời kỳ đổi mới,
và là một trong những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, trong đó có sự
đổi mới của văn học.”
Tóm
lại, dẫu người Việt sau nửa thế kỷ chưa thể hòa giải được với nhau trên trường
chính trị đa nguyên, thì ít ra chúng ta đang tiến lại gần nhau hơn qua một nền
văn học đầy nhân bản tình người vậy.
Riêng
kính tặng các văn hữu đồng nghiệp miền Nam từ trước 1975 của chúng ta nay đã
vĩnh viễn ra đi. —TD
[TD2025/04]
-----------------
Lời
tòa soạn
Bài
viết này tác giả đã cho đăng tải lần đầu trên tờ Việt Báo vào ngày
30/4/2025. Nay, tác giả đề nghị cho đăng lại trên Luật Khoa tạp chí.
Trong
bản đăng lần này, chúng tôi có hiệu chỉnh một số lỗi nhập liệu, nhất quán cách
viết các danh xưng, viết hoa và viết số. Ngoài ra, chúng tôi giữ nguyên lối diễn
đạt và ngôn từ theo phong cách miền Nam xưa của tác giả, để bảo lưu ý tứ và cảm
xúc đầy đủ nhất cho bài viết, cũng như để trân trọng di sản tiếng Việt của một
thời miền Nam xưa cùng với “một khoảnh Việt Nam Cộng hòa nối dài” vẫn còn mãi đến
ngày nay, như ngôn từ của Tạ Chí Đại Trường.
Những
chữ có thể gây khó hiểu hoặc hiểu nhầm cho những độc giả chưa quen với lối viết,
lối nói miền Nam xưa, biên tập viên xin chú thích thêm trong ngoặc vuông [ –
BTV] cách viết phổ biến hiện nay.
------------------------------
Chú
thích
Trăm
hoa đua nở trên đất Bắc. Saigon : Mặt-trận bảo-vệ tự-do văn-hóa,
1959.
https://lccn.loc.gov/75986982 và https://www.scribd.com/document/535108983/Tr%C4%83m-Hoa-%C4%90ua-N%E1%BB%9F-Tren-%C4%90%E1%BA%A5t-B%E1%BA%AFc-NXB-Sai-Gon-1959-Hoang-V%C4%83n-Chi-330-Trang
“Văn
học miền Nam”, http://thuykhue.free.fr/stt/v/VanHocMienNam.html
“Vì
sao triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa mãi trường tồn?”
“Book
burning of the South Vietnam – Miền Bắc đốt sách của Miền Nam như thế
nào?”
https://www.youtube.com/watch?v=_mjoRthhK_s
Võ
Phiến, Văn học Miền Nam Tổng quan,
Trùng
Dương, “Phụ nữ viết văn thời Cộng hòa”,
https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/phu-nu-viet-an-thoi-viet-nam-cong-hoa/
“Hốt
xác đồng bào tử nạn trên ‘Đại lộ Kinh hoàng’”,
https://usvietnam.uoregon.edu/tu-lieu-lich-su-hot-xac-dong-bao-tu-nan-tren-dai-lo-kinh-hoang-1972/
Trùng
Dương hội luận về văn học miền Nam với các bạn trẻ:
https://youtu.be/sIXFLydUMLM?si=8nmIRTYZ3uKa58cu
Hồi
ký Nguyễn Hiến Lê,
Tập I, II & III, Văn Nghệ xuất bản 1988,
Nhật
Tiến, “Hoàn Cảnh Sáng tác Của Anh Chị Em Văn Nghệ Sĩ Ở Quê Nhà Sau
30-4-1975”,
https://nhavannhattien.wordpress.com/hoan-canh-sang-tac-cua-anh-chi-em-van-nghe-si-o-que-nha/
Nguyễn
Vy Khanh, “Văn Học Miền Nam Tự-Do 1954-1975 (Phần 2): Một thời tưởng tiếc”,
https://damau.org/35752/van-hoc-mien-nam-tu-do-1954-1975-phan-ii
Nguyễn
Vy Khanh, Văn Học Miền Nam 1954-1975, Quyển Thượng và Quyển Hạ,
https://www.amazon.com/V%C4%83n-H%E1%BB%8Dc-Mi%E1%BB%81n-Nam-1954-1975/dp/1989924956
Nhã
Ca, “Người cầm bút thời Việt Nam Cộng Hòa”, Chương 13, tr. 280-290, Việt
Nam Cộng Hòa 1955-1975 – Kinh Nghiệm Kiến Quốc, chủ biên Vũ Tường và Sean
Fear, Văn Học 2022,
“UC
Berkeley Nhìn Lại 20 Năm VNCH Xây Dựng Quốc Gia Trong Thời Chiến”, Kỳ 1 và
2,
https://damau.org/44777/uc-berkeley-nhin-lai-20-nam-vnch-xay-dung-quoc-gia-trong-thoi-chien-ky-12 và https://damau.org/44805/uc-berkeley-nhin-lai-20-nam-vnch-xay-dung-quoc-gia-trong-thoi-chien-ky-22
Trăm
hoa vẫn nở trên quê hương: Cao trào văn nghệ phản kháng tại Việt-Nam, 1986-1989: tuyển tập. Reseda,
CA : Le Tran Pub. Co., c1990. 797 p. : ill. ; 24 cm. PL4378.4 .T7 1990,
Thụy
Khuê, “Nói chuyện với nhà phê bình Vương Trí Nhàn”,
http://thuykhue.free.fr/stt/v/VuongTriNhan-NC-VHMN.html
“Trùng
Dương: 48 năm sau nhìn lại. Công trình vãn hồi sách báo Miền Nam & nghiên cứu
kinh nghiệm kiến quốc 1955-1975 của VNCH”,
“Chuyện
trò với Giáo sư Vũ Tường về cuộc hội thảo Kinh nghiệm kiến quốc trong thời chiến
của Việt Nam Cộng hoà, 1955-1975 tại UC Berkeley”,
Việt
Nam Cộng Hòa 1955-1975: Kinh Nghiệm Kiến Quốc, Vũ Tường &
Sean Fear chủ biên,
https://damau.org/71006/viet-nam-cong-ha-1955-1975-kinh-nghiem-kien-quoc-vu-tuong-sean-fear-chu-bin
Webinar
– Literature and Journalism in the Republic of Vietnam (1955 – 1975) and the
Reception of Western Thought,
https://www.aai.uni-hamburg.de/soa/aktuelles/21-06-11-viet-literature-conference.html; a list of paper
presentations, https://www.aai.uni-hamburg.de/soa/aktuelles/21-06-11-viet-literature-conference/programme-literature-and-journalism.pdf; and “A report from
the conference on Literature and Journalism in the Republic of Vietnam (1955 –
1975) and the Reception of Western Thought from the 11th of July, 2021,” https://www.aai.uni-hamburg.de/soa/aktuelles/21-07-12-conferencereport-vietnam.html
“Nhà
phê bình Trần Hoài Anh: Văn học miền Nam là một di sản”,
https://vanhocsaigon.com/nha-phe-binh-tran-hoai-anh-van-hoc-mien-nam-la-mot-di-san/
“Văn
học: Lý Luận-Phê Bình Văn Học Miền Nam 1954-1975 – Tiếp Nhận Và Ứng Dụng
PDF”,
https://yds.edu.vn/ly-luan-phe-binh-van-hoc-mien-nam-1954-1975-tiep-nhan-va-ung-dung-pdf/
“Nhà
nghiên cứu Trần Hoài Anh: Văn học nghệ thuật miền Nam trước 1975 – Bước hòa hợp
mới”,
-----------------
Trùng
Dương
Văn học miền Nam: Từ bức tử tới phục
sinh
Bài
viết tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam từ 1954 tới
1975,...
Phụ nữ viết văn thời Cộng hòa – Kỳ 2:
Mảnh đất mầu mỡ cho văn học
Bài
viết gốc được đăng trên trang của Trung tâm Nghiên cứu Việt - Mỹ (Đại học
Oregon) ngày 27/12/2020. Với...
Phụ nữ viết văn thời Cộng hòa – Kỳ 1:
Một biên khảo
Bài
viết gốc được đăng trên trang của Trung tâm Nghiên cứu Việt - Mỹ (Đại học
Oregon) ngày 27/12/2020. Với...
------------------------
Đọc
thêm:
Phụ nữ viết văn thời Cộng hòa - Kỳ 1:
Một biên khảo
Bài
viết gốc được đăng trên trang của Trung tâm Nghiên cứu Việt – Mỹ (Đại học
Oregon) ngày 27/12/2020. Với sự đồng ý từ trung tâm, Luật Khoa tạp chí biên tập
và giới thiệu lại bài viết của nhà văn Trùng Dương – một hồi tưởng
sâu sắc về thời các nữ nhà văn
Nhà văn Uyên Thao: Người đứng về phe
nước mắt
Nếu
chỉ được chọn một câu chuyện đời người để minh hoạ cho bức tranh toàn cảnh về lịch
sử Việt Nam thế kỷ 20, tôi sẽ chọn câu chuyện cuộc đời nhà văn Uyên Thao. Cảm
thức về con người Không phải cứ cầm bút là thành “nhà văn”. Nhà văn là người cầm
bút nhìn con người với đôi mắt vượt lên trên mọi đường biên giới, nhìn con người
ở phần bản thể người của họ, không nhìn con người đơn giản chỉ qua màu cờ sắc
áo họ mang theo. Nếu định nghĩa “nhà văn” như […]
Chú
thích
---------------------
Bài
viết liên quan
Trại cải tạo sau ngày
30/4/1975: Bi kịch của người miền Nam đến chậm rãi và theo một cách khác
.
.
Nguyễn Văn Thiệu và sự
sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa
.
Giết hay lưu đày? – Về
kế hoạch đảo chính Ngô Đình Diệm
.
Việt Nam Cộng hòa chỉ
tồn tại 20 năm – Vì sao tôi vẫn viết về nó?
No comments:
Post a Comment