“THUYỀN”:
Dấu chấm hết để chuyển sang chương mới…
Mai An Nguyễn Anh Tuấn
| vanviet.info
Posted
on 26 Tháng Sáu, 2025 by post3
https://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/thuyen-dau-cham-het-de-chuyen-sang-chuong-moi/
HÌNH
:
Trong
khi đọc cuốn sách rất thú vị này của nhà văn hải ngoại Nguyễn Đức Tùng, không
hiểu sao tôi sực nhớ đến những ngày theo chân các nhà sử học Việt Nam dẫn đầu
là ông Trần Đức Cường, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, khi các ông bà vất
vả trèo núi lên tới cột chủ quyền giữa Biển Đông trên đảo Hòn Nhạn, và ghi lại
được cả những bước chân đạp đá sắc cỏ dại của họ, như sự tái hiện về quãng đời
gian truân của vị Chúa Nguyễn cuối cùng đang tìm đường đi cho cả dân tộc – và
trước khi đến với cái đích của mình, ngài đã tìm được Biển Đông… Đó là đoạn đời
Nguyễn Vương chuẩn bị lên ngôi hoàng đế sau nhiều năm tháng lang thang trên những
hòn đảo phía Tây của Biển Đông – đặc biệt là quần đảo Phú Quốc –, với giấc mơ
chinh phục Biển cả, bằng “Tầm nhìn biển Đông” mà gốc rễ là ý thức coi trọng chủ
quyền biển đảo Tổ quốc, có cội nguồn từ các vị Chúa Nguyễn đời trước…
Và
đọc xong cuốn sách THUYỀN, tôi lại nghĩ đến ước vọng của TS. sử học Đinh Công Vỹ
– người coi tôi là “bạn vong niên” – đang ấp ủ công trình lớn cuối đời của ông
về NỘI CHIẾN VIỆT, như một sự nối tiếp, bổ sung cho công trình quan trọng của
nhà sử học hải ngoại Tạ Chí Đại Trường: Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ
1771 đến 1802 (Nxb Tri thức, 2013)…
THUYỀN
của tác giả Nguyễn Đức Tùng, như một số nhà phê bình đã chỉ ra khá chuẩn xác,
đã không chú tâm khai thác vào kho tàng “văn học vết thương”, “văn học tố khổ”,
dù vẫn mang âm hưởng đó, song dường đã thoát ra cái cảm hứng chủ đạo “thù muôn
đời muôn kiếp không tan” (Tố Hữu) in đậm trong văn học nghệ thuật nước ta nhiều
thập kỷ, thậm chí đến tận lúc này với phim điện ảnh sử thi “Địa đạo – mặt trời
trong lòng đất”… THUYỀN có thể coi như tác phẩm văn học cuối cùng của dòng văn
chương lưu vong khởi nguồn từ Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên
Trừng, và đặc biệt hơn cả là đặt dấu chấm hết cho một chương dài của văn chương
Việt tả/ kể về số phận người Việt phiêu bạt trên Biển cả, qua bao biến cố kinh
hoàng của Lịch sử – trong đó có sự kiện “Thuyền Nhân” đang còn làm rỉ máu nhiều
người Việt trong nước & nước ngoài… Đặt dấu chấm hết này để có tâm thế chuyển
sang một “chương” mói, có ý nghĩa hơn, cần thiết hơn, và cấp bách hơn cả hiện
giờ là Hòa hợp Hòa giải Dân tộc một cách thực chất…
Và
sự “Chấm hết” cùng sự “Mở đầu” này – như một thứ Định mệnh, đưa Người Việt hiện
đại trở về những chặng Hải trình viễn dương hào hùng oanh liệt của người Việt từ
trước Công nguyên từng để lại dấu vết thương buôn khắp chốn từ Siberia sang đến
Hồng Hải, từ châu Đại dương qua tận Madagascar…(1). Còn vị chúa Nguyễn
cuối cùng Nguyễn Ánh từ năm 15 tuổi cho đến năm 25 tuổi (1777 đến năm 1787) đã
có tới 6 lần qua lại ở vùng biển đảo Tây Nam, trải qua những trận chiến đấu vô
cùng ác liệt và những khó khăn gian khổ vượt quá sức chịu đựng của con người để
làm nên kỳ tích của một đời người, khiến Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong khi lên
án vua Khải Định đã hết lời ca ngợi vua Gia Long, nhất là những năm tháng gian
nan và hào hùng của ông tại vùng biển đảo Tây Nam này: “Với lòng quả cảm vô
song và đức hạnh trong sáng không tỳ vết, như vàng ròng lấp lánh sau ngàn lần
thử lửa, ông tổ ngươi, vua Gia Long tôn quý và tài ba bội phần, sau biết bao
thăng trầm và khổ đau vô bờ, đã để lại cho ngươi một đất nước giàu có, một dân
tộc độc lập, một quốc gia được kẻ mạnh vị nể và kẻ yếu kính mến, với một tương
lai đầy sức sống và triển vọng” (Les lamentations de Trung Trac ‘Lời
than thở của bà Trưng Trắc’. báo L’Humanité của Đảng Cộng sản Pháp số ra
ngày 24 tháng 6 năm 1922)(2)… Sách Đại Nam nhất thống chí đã
viết về đảo Phú Quốc và vua Gia Long: “Phía Tây Nam có cửa Dương làm chỗ ghe
thuyền đến đậu yên ổn. Dân miền biển đến ở, lập thành làng xóm. Gần đó về phía
Nam có hòn Long Trấn; phía Đông Nam có hòn Dừa, phía Tây Bắc có hòn Năng Nội và
hòn Năng Ngoại. Lúc đầu trung hưng, Thế tổ Cao Hoàng đế từng dừng chân ở đây,
nhân dân đều giúp sức hết lòng, thám báo địch tình, cung cấp vật dụng, nên sau
khi nước nhà đại định, được miễn sưu thuế giao dịch, cho đến ghe thuyền buôn
bán hay đánh cá cũng được miễn thuế”.
Trên
đảo Phú Quốc hiện nay bên cạnh các di tích ở khu vực An Thới, vẫn còn nhiều di
tích đóng quân của vua Gia Long ở khu Bãi Vàm (làng chài Hàm Ninh), ở vịnh biển
cổ Bàu Bàng (xã Cửa Cạn)… Tại xã Cửa Cạn, ông dựa hẳn vào những dân chài người
Việt từ miền Trung di cư vào để xây dựng một cơ sở hậu cần. Con cháu của người
dân địa phương các vùng này còn kể lại chuyện cha ông họ đã cưu mang, phù giúp
vua Gia Long bằng lương thực, của cải, thậm chí bằng cả tính mạng của mình…
Như
vậy là, vua Gia Long trong những năm tháng gian nan và khốn khó nhất của cuộc đời
đã tìm đến vùng biển đảo Tây Nam xa xôi, dựa vào dân để xây lực lượng, mưu đồ
nghiệp lớn. Những hoạt động của vua Gia Long tại đây đã góp phần khẳng định
danh nghĩa chủ quyền đối với biển đảo Tây Nam Tổ quốc của quốc gia Đại Việt và
của chúa Nguyễn Đàng Trong. Sách Đại Nam thực lục ghi lại: Vào
tháng 10 năm Kỷ Dậu (1789), nghĩa là vừa mới tổ chức lại chính quyền sau khi từ
Xiêm về nước, Nguyễn Ánh đã ban lệnh “tha thuế thân sang năm cho dân sở Phú Quốc.
Vua thấy xứ ấy đất hẹp dân nghèo nên tha cho…”. Nhiều dấu tích hoạt động của
ông đã đi vào truyền thuyết và đời sống văn hóa tâm linh, sống trong tâm tưởng
người dân và hương khói bao đền miếu vùng biển đảo Phú Quốc, Thổ Chu, Nam Du,
Hòn Tre, hòn Sơn Rái…(3)
Từ
đó, có thể khẳng định triều Nguyễn là triều đại đã vẽ nên một hình thể lãnh thổ
đất nước thống nhất từ đất liền đến biển, đảo để có một nước Việt Nam hoàn chỉnh
hiện nay – việc đầu tiên là xác lập chủ quyền của nước ta đối với biển, đảo.
Nhà Nguyễn huy động một lực lượng lớn bao gồm quan chức của các cơ quan Trung
ương Nội các, Bộ Công, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Hình, Giám thành Khâm thiên giám, thuỷ
sư… phối hợp với quan chức địa phương và ngư dân các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định
hàng năm thực thi công vụ Hoàng Sa như vẽ bản đồ, kiểm kê tài nguyên trên đảo,
đo đạc hải trình, cắm cọc tiêu, trồng cây, dựng miếu, cắm bia chủ quyền, xây dựng
hệ thống kho tàng, đồn luỹ, đặt trạm thu thuế, quan trắc thiên văn và dự báo thời
tiết. Ngôi chùa Việt có tên “Hoàng Sa tự” trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng
Sa là do Cai đội Phạm Văn Nguyên cùng lính và phu dân hai tỉnh Bình Định và Quảng
Ngãi chuyên chở vật liệu từ đất liền ra xây dựng…
Giữa
thời kỳ tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải giữa các quốc gia, một cuộc xung đột đa lợi
ích có yếu tố văn hóa đang trở thành một “thùng thuốc súng lớn”, còn giới cầm
quyền Trung Quốc đại lục phất lên ngọn cờ thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”, để
“từ một quốc gia nạn nhân của “bè lũ cướp biển quốc tế” họ lại “tự diễn biến”
thành tên cướp biển cơ hồ duy nhất của thế giới đương đại” (Trần Ngọc Vương),
khi cả Dân tộc cần cố kết lại thành một sức mạnh thời đại để có thể làm chủ Biển
Đông cho các chương trình tái thiết – phát triển quốc gia, thì tác phẩm THUYỀN
ra đời, với những nội dung hàm chứa trong đó quả là một lời kêu gọi thống thiết:
đã đến lúc chấm dứt (hoặc tạm dừng vô thời hạn) việc khoét sâu vào nỗi đau đang
lên da non của một thứ “Nội chiến” kéo dài hàng thế kỷ!
Và
“Chương mới” đang mở ra, công chúng Việt khắp nơi tràn đầy hy vọng chờ đợi những
nhà văn, nghệ sĩ có tài năng và tâm huyết với vận mệnh Dân tộc viết & vẽ
nên những trang thích đáng!
___________
1.Theo: Văn
hóa nước và hàng hải thời cổ của Việt Nam, Vũ Hữu San, Nxb Phụ nữ
2017, tr. 32.
2.
Theo: Tạp chí Xưa và Nay Số 557 tháng 11/ 2023.
3.
Mai An Nguyễn Anh Tuấn. Trang sử lộng gió chủ quyền trên biển đảo Tây Nam
Tổ Quốc. https://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=30102
No comments:
Post a Comment