Nghịch
lý của việc tưởng niệm Hải chiến Hoàng Sa ở Việt Nam (P1)
Christelle Nguyen - The Diplomat
Nguyễn Thị Kim Phụng,
biên dịch
Cuộc
đụng độ này là một cột mốc quan trọng đối với tuyên bố chủ quyền của Hà Nội ở
Biển Đông – nhưng việc kỷ niệm 50 năm trận chiến đòi hỏi phải thảo luận về
chính phủ Việt Nam Cộng hoà.
“Nghĩ
cho cùng
Mọi
cuộc chiến tranh
Phe
nào thắng thì nhân dân đều bại…”
–
“Đá ơi”, Nguyễn Duy.
Đường
Quốc Cường
là một trong những diễn viên Trung Quốc nổi tiếng nhất tại Việt Nam. Ông đã
thành danh nhờ các vai diễn nhân vật lịch sử trong các bộ phim cổ trang, vốn là
dòng phim thống trị truyền hình Việt Nam vào cuối những năm 1990 và đầu những
năm 2000. Vai diễn nổi bật nhất của ông có lẽ là vai quân sư Gia Cát Lượng
trong tác phẩm kinh điển “Tam Quốc Diễn Nghĩa,” một biểu tượng của trí tuệ thời
xưa trong văn hóa đại chúng Việt Nam.
Tuy
nhiên, khán giả Việt Nam ít ai biết rằng vai diễn đầu tay của ông lại là trong
một bộ phim điện ảnh ra mắt năm 1976. “Nam Hải Phong Vân” (Bão Biển Đông), do
xưởng phim quân sự duy nhất ở Trung Quốc sản xuất, mô tả lại Hải chiến Hoàng Sa
năm 1974 giữa Trung Quốc đại lục và Việt Nam Cộng hoà.
Đường
Quốc Cường đã vào vai một ngư dân lạc quan và chăm chỉ, sống ở một quần đảo
giàu tài nguyên mà tiếng Trung gọi là “Tây Sa” còn tiếng Việt gọi là “Hoàng
Sa.” Nhân vật của ông đã chứng kiến sinh kế và gia đình của mình bị ảnh hưởng
sau những đợt quấy rối liên tục của quân đội Việt Nam Cộng hoà ở Biển Đông.
Quyết tâm trả thù, ông trở thành thủ lĩnh của Hải quân Trung Quốc. Và thế là,
những ngư dân kiên cường, được rèn luyện bởi tinh thần Cách mạng Văn hóa, và
được truyền cảm hứng từ tài lãnh đạo của Mao Trạch Đông, đã góp phần vào chiến
thắng của Trung Quốc trước đội quân “đế quốc” do Tổng thống Việt Nam Cộng hoà
tham nhũng và hèn nhát Nguyễn Văn Thiệu gửi đến.
Kịch
bản của bộ phim được xây dựng theo phiên bản chính thức của Trung Quốc về trận
hải chiến xảy ra vào ngày 19-20/01/1974, dù thật ra giao tranh đã diễn ra từ
vài ngày trước đó, nhằm tranh giành quyền kiểm soát quần đảo lúc bấy giờ chưa
có người ở. Phía Trung Quốc gọi trận chiến ngắn ngủi này là “Cuộc phản công tự
vệ Tây Sa,” trong khi người Việt gọi nó là “Hải chiến Hoàng Sa.”
Suốt
nhiều năm, chính quyền Việt Nam (Hà Nội) chọn cách giữ im lặng về trận chiến,
và thậm chí còn ngăn chặn những nỗ lực quy mô lớn để tưởng nhớ những người lính
đã hy sinh, những người đã chiến đấu thay mặt cho Việt Nam Cộng hoà. Nhưng giờ
đây, Đảng Cộng
sản Việt Nam (ĐCSVN) không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tưởng nhớ Hải chiến
Hoàng Sa đã bị lãng quên từ lâu, tất nhiên là phải làm điều đó một cách thận
trọng và có chọn lọc.
Một
mặt, Hà Nội cần bằng chứng lịch sử về hành vi xâm lấn của Trung Quốc để khẳng
định yêu sách lãnh thổ của mình ở Biển Đông vốn đang ngày càng căng thẳng. Nước
Việt Nam thống nhất do ĐCSVN lãnh đạo được kế thừa các yêu sách lãnh thổ của
Việt Nam Cộng hoà đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mặt khác, đảng
phải đối mặt với một tình thế lưỡng nan khi thừa nhận chính phủ Việt Nam Cộng
hoà, vốn là kẻ thù của họ trong và thậm chí sau Chiến tranh Việt Nam.
Lịch sử
của những trận chiến, trận chiến của những lịch sử
Theo
cuốn sách xuất bản năm 2009 của Chen Meifang, “Defending Xisha: PLA’s
Self-Defense Counterattack Operations in Xisha Islands” (Các chiến dịch Phản
công Tự vệ của PLA tại Quần đảo Tây Sa), Mao Trạch Đông khi ở tuổi 80 đã đưa ra
quyết định tham chiến cuối cùng của mình khi viết hai chữ “đồng ý” lên báo cáo
của Chu Ân Lai, cáo buộc rằng Việt Nam Cộng hoà “bá quyền và bành trướng” ở
vùng lãnh hải của Trung Quốc. Sau đó, Mao giao trọng trách lại cho Diệp Kiếm
Anh và Đặng Tiểu Bình, người vừa được phục chức sau Cách mạng Văn hóa.
Trong
trận chiến diễn ra sau đó, Trung Quốc đã nhanh chóng đánh bại quân đội Việt Nam
Cộng hoà, mà khi đó gần như đã bị các đồng minh bỏ rơi. Hơn 100 lính Việt Nam
Cộng hòa thiệt mạng hoặc bị thương, trong khi 48 người khác và 1 sĩ quan liên
lạc Mỹ bị bắt giữ, so với 18 lính Trung Quốc thiệt mạng và 67 người khác bị
thương. Trung Quốc đã rất tự hào khi giành chiến thắng trong trận chiến trên
biển đầu tiên của mình.
Kể
từ đó, người Trung Quốc đã đến sinh sống ở khu vực này. Đảo Phú Lâm, đảo lớn
nhất ở Hoàng Sa, hiện có dân số thường trú là 1.000 người. Nó cũng là nơi có
Thành phố Tam Sa, đơn vị hành chính mà Trung Quốc tuyên bố là đang kiểm soát
tất cả các thực thể biển ở Biển Đông.
Nhà
sử học George J. Veith, tác giả cuốn “Drawn Swords in a Distant Land: South
Vietnam’s Shattered Dreams” (Rút kiếm ở phương xa: Những giấc mơ tan vỡ của
Việt Nam Cộng hoà) xuất bản năm 2021, cho biết rằng bất chấp những nỗ lực kéo
dài nhiều năm của chính quyền Sài Gòn nhằm khẳng định chủ quyền đối với quần
đảo Hoàng Sa, thì đây vẫn là một quần đảo rất khó bảo vệ. Vào thời điểm xảy ra
xung đột, Việt Nam Cộng hoà đã bố trí một lực lượng đồn trú nhỏ trên một hòn
đảo và duy trì hoạt động tuần tra hải quân trong khu vực.
“Tàu
Hải quân Việt Nam là những chiếc tàu cũ thời Thế chiến II do Mỹ cung cấp, nhưng
quần đảo này rất khó tiếp tế, và các máy bay chiến đấu F-5 gần như đã đạt đến
giới hạn nhiên liệu khi bay từ sân bay Đà Nẵng đến Hoàng Sa. Vậy nên, dù Sài
Gòn muốn kiểm soát quần đảo và đã cố gắng làm điều đó, thì họ vẫn gặp nhiều khó
khăn,” Veith nói qua email.
“Mặt
khác, Trung Quốc lại có thể đưa tàu đến gần quần đảo. Sau nhiều lần Trung Quốc
hành động khiêu khích, trận hải chiến ngắn ngủi đã kết thúc với thất bại cho
chính quyền Nam Việt.”
Khi
đó, Việt Nam Cộng hoà sắp sụp đổ đã bị bỏ mặc để tự thân vận động. Năm 1972,
Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã tới Bắc Kinh và bắt đầu quá trình bình thường
hóa quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nhật Bản cũng có động thái tương
tự, dù Tokyo vẫn tiếp tục ủng hộ Sài Gòn cho đến khi chế độ này sụp đổ năm
1975. Về phần mình, Pháp công nhận Trung Quốc và kêu gọi Mỹ rút quân khỏi Việt
Nam.
Sau
khi ký kết Hiệp định Paris năm 1973, nhiều nước phương Tây bắt đầu hợp tác với
chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Bắc Việt). Đài Loan, một đồng minh của
Nam Việt, không nêu rõ lập trường của mình đối với quần đảo Hoàng Sa, dù nhiều
nguồn tin từ Trung Quốc đại lục cho rằng chính phủ Tưởng Giới Thạch đã ngầm hợp
tác với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Vào thời điểm đó, Đài Bắc vẫn tin vào giấc
mơ hoang đường là tái chiếm đại lục, và do đó, một chiến thắng của PLA sẽ được
coi là bàn đạp để Trung Hoa Dân Quốc giành được quyền kiểm soát quần đảo Hoàng
Sa.
Mọi
nỗ lực yêu cầu Mỹ hỗ trợ quân sự của Tổng thống Thiệu đều vô ích. Trong khi đó,
lính Việt Nam Cộng hoà bị kiệt quệ cả về vật chất lẫn tinh thần. Vũ Văn Lộc,
nguyên đại tá của chế độ Sài Gòn phụ trách hậu cần sau khi Mỹ rút quân, tiết lộ
rằng quân đội Việt Nam Cộng hòa lúc đó chưa chuẩn bị tốt cho trận chiến.
Tiến
sĩ Sean Fear từ Đại học Leeds đồng ý với nhận định này, và nói qua email: “Tôi
cho rằng tinh thần của binh lính Việt Nam Cộng hòa tham gia trận đánh này không
cao, chủ yếu dựa trên ấn tượng của tôi về các sự kiện ở nơi khác vào cùng thời
điểm.”
Trong
nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng, Việt Nam Cộng hoà đã phản đối tại Liên Hiệp Quốc,
nhưng Trung Quốc, vốn có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an – nơi Bắc Kinh
thay thế Đài Loan kể từ năm 1971 – đã ngăn chặn mọi nỗ lực đưa vấn đề này ra
bàn luận. Theo Giáo sư Nguyễn Thị Hạnh của Học viện Ngoại giao Việt Nam trong
cuốn “Les Conflits Frontaliers Sino-Vietnamiens” (Xung đột Biên giới
Trung-Việt) xuất bản năm 2018, Liên Hiệp Quốc đã từ chối can thiệp vào cuộc
xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam Cộng hòa liên quan đến tranh chấp chủ
quyền trên quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1/1974.
Bắc
Việt cũng không tham gia nỗ lực này, vốn diễn ra trong thời kỳ căng thẳng với
Trung Quốc. Sáng kiến của Tổng Bí thư Lê Duẩn nhằm thảo luận vấn đề Hoàng Sa và
Trường Sa với Phó Thủ tướng Trung Quốc lúc bấy giờ là Đặng Tiểu Bình trong
chuyến thăm Bắc Kinh vào tháng 9/1975, sau khi Sài Gòn thất thủ, đã bị bác bỏ.
Đặng nói rằng lập trường của mỗi nước “đã rõ ràng.”
Năm
1977, Chính phủ Việt Nam ra “Tuyên bố về Lãnh hải, Vùng tiếp giáp, Vùng đặc
quyền kinh tế, và Thềm lục địa”, trong đó khẳng định quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Anh hùng
hay kẻ thù?
Thất
bại trong Hải chiến Hoàng Sa mâu thuẫn với quan điểm chính thức ở Việt Nam,
rằng họ đã giành chiến thắng trong nhiều trận chiến khác nhau, chủ yếu là chống
lại Trung Quốc. Đúng là Việt Nam đã thua – nhưng đó không phải là nước Việt Nam
thống nhất như ngày nay.
Sách
giáo khoa hiện tại, vốn lấy Hà Nội làm trung tâm, đã che giấu giới trẻ Việt Nam
sự thật rằng, cho đến khi Sài Gòn sụp đổ, chính quyền Bắc Việt chỉ được một số
quốc gia khác công nhận, chủ yếu là các nước khối Cộng sản. Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà không phải là thành viên chính thức của Liên Hiệp Quốc. Ngược lại, chế
độ miền Nam lại được Liên Hiệp Quốc và gần 90 quốc gia công nhận.
Điều
này đã làm phức tạp thêm việc tưởng nhớ chính thức, bởi Việt Nam Cộng hoà mới
là bên dẫn đầu các nỗ lực duy trì chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và họ đã
làm điều đó bằng cách hợp tác với nhiều nước khác. Thiệu đã yêu cầu Pháp cung
cấp đầy đủ tài liệu về tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông. Tháng
10/1973, chỉ vài tháng trước Hải chiến Hoàng Sa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam, mà truyền thông phương Tây thường gọi là “Việt Cộng”, đã công bố ý
định giải phóng các khu vực “bị kẻ thù chiếm đóng trái phép.”
Kẻ
thù ở đây ám chỉ chính quyền miền Nam do Thiệu lãnh đạo. Đáp lại, Thiệu tuyên
bố: “Chính chúng ta phải tự cứu lấy mình” và ra lệnh cho quân Việt Nam Cộng hoà
kiên trì chiến đấu. Ông thậm chí còn tới Đà Nẵng để giám sát việc phòng thủ
quần đảo Hoàng Sa, nhưng những nỗ lực này đều vô ích.
Lập
trường của ĐCSVN đã thay đổi khi họ trở thành lãnh đạo của một Việt Nam thống
nhất. Giờ đây, chính ĐCSVN phải giải quyết sự hung hăng ngày càng tăng của
Trung Quốc ở Biển Đông và cung cấp bằng chứng lịch sử về các yêu sách lãnh thổ
của Việt Nam. Chỉ trong những trường hợp này, chế độ cũ ở miền Nam mới được gọi
đầy đủ là Việt Nam Cộng hòa thay vì “chế độ bù nhìn” như thường lệ.
Chẳng
hạn, tại Đài tưởng niệm Hoàng Sa ở thành phố Đà Nẵng, được xây dựng vào năm
2016, chính quyền Nam Việt đã được gọi là Việt Nam Cộng hoà, nhưng tại các bảo
tàng lịch sử khác của cùng thành phố, họ vẫn bị gọi là chế độ bù nhìn.
Dù
vậy, những người lính chiến đấu thay mặt cho Việt Nam Cộng hoà, kể cả trong
trận Hoàng Sa, lại không nhận được bất kỳ lời cảm ơn nào từ ĐCSVN.
Sau
khi Sài Gòn thất thủ vào tháng 4/1975, các quan chức quân sự và dân sự của chế
độ miền Nam bị đưa đến các trung tâm cải tạo được xây dựng theo mô hình của
Trung Quốc. Họ cũng bị từ chối một số cơ hội nghề nghiệp và giáo dục nhất định
trong chế độ xã hội chủ nghĩa mới. Sử gia Vũ Minh Hoàng mô tả điều này là
“không cần thiết và lãng phí” trong chương sách “Recycling Violence: The Theory
and Practice of Reeducation Camps in Postwar Vietnam” (Tái chế bạo lực: Lý
thuyết và thực tiễn của các trại cải tạo ở Việt Nam thời hậu chiến).
Tiến
sĩ Cù Huy Hà Vũ đã làm việc tại Bộ Ngoại giao Việt Nam suốt 30 năm trước khi
trở thành một người bất đồng chính kiến và phải chuyển đến sống ở Mỹ. Cha ông
là nhà thơ nổi tiếng, Bộ trưởng Cù Huy Cận, người đã cùng Hồ Chí Minh ký Tuyên
ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Tiến
sĩ Cù Huy Hà Vũ đã tiến hành nhiều nghiên cứu sâu rộng, bao gồm các cuộc phỏng
vấn với người nhà của một số sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng hoà từng bị giam
giữ. Các cuộc phỏng vấn đã được ghi lại và chia sẻ trên các kênh truyền thông
quốc tế. Tháng 8/2010, ông trình lên Quốc hội Việt Nam đề nghị ân xá cho các sĩ
quan quân đội và viên chức dân sự từng phục vụ dưới chế độ Việt Nam Cộng hoà
(1954-1975).
“Trớ
trêu thay, giới lãnh đạo nước Việt Nam thống nhất, sau 30 năm chiến tranh,
không những không học được tấm gương hòa giải dân tộc của Hồ Chí Minh, mà trái
lại còn làm sâu sắc thêm vết thương dân tộc khi tập trung vào việc ‘cải tạo’
hàng trăm nghìn quân nhân và quan chức của Việt Nam Cộng hòa suốt những năm
qua,” Cù Huy Hà Vũ viết trong bản kiến nghị được ông phổ biến rộng rãi trên
mạng.
Chính
quyền đã sử dụng tài liệu này để buộc tội ông Vũ tạo ra và phát tán nội dung
tuyên truyền chống nhà nước. Sau đó vài tháng, ông bị bắt và bị bỏ tù bảy năm.
“Theo
như tôi biết, đã không còn quân nhân Việt Nam Cộng hoà nào bị cầm tù nữa,” ông
Vũ nói trong một email.
*****
Nghịch
lý của việc tưởng niệm Hải chiến Hoàng Sa ở Việt Nam (P2)
Christelle Nguyen
- The
Diplomat
Nguyễn
Thị Kim Phụng, biên
dịch
Người
chết và kẻ bại trận
Bất
chấp thất bại năm 1974, những người lính trở về miền Nam vẫn được chào đón như
những anh hùng, trước khi Sài Gòn thất thủ. Một con phố ở Sài Gòn đã được đặt
theo tên Trung tá Ngụy Văn Thà, người hy sinh khi chiến đấu ở Hoàng Sa. Sau năm
1975, con đường mang tên người anh hùng đó đã không còn nữa.
Trong
cuốn “Nothing is Impossible: America’s Reconciliation With Vietnam” (Không gì
là không thể: Hòa giải giữa Mỹ và Việt Nam) xuất bản năm 2022, cựu Đại sứ Mỹ
tại Việt Nam Ted Osius đã chia sẻ câu chuyện cá nhân của ông khi đến thăm nghĩa
trang Biên Hòa được kiểm soát gắt gao nằm gần Sài Gòn, nơi duy nhất được dùng
để chôn cất các binh sĩ của chế độ cũ. Ông cũng nêu chi tiết những nỗ lực ngoại
giao của mình đối với các quan chức Việt Nam, để xin phép thực hiện các hoạt
động đơn giản như đào mương và dọn dẹp rễ cây trong nghĩa trang. Osius coi
nghĩa trang Biên Hoà là “điểm bản lề” (pivot point) cho sự hòa giải giữa hai
miền Nam và Bắc Việt Nam.
Theo
Giáo sư Ngô Thị Thanh Tâm của Viện Nghiên cứu Chiến tranh, Holocaust, và Diệt
chủng (NIOD) có trụ sở tại Amsterdam, những người lính tử trận của Việt Nam
Cộng hoà được gọi là “tử sĩ” và xác của họ được phân loại vào nhóm “kẻ thù đã
chết.” Nơi chôn cất của họ thường được xem là “vùng chết,” bị những người còn
sống xa lánh, bởi vì kẻ thù là những kẻ “không nên được xót thương.”
Trong
khi đó, 1,2 triệu người lính của Quân đội Nhân dân Việt Nam (Quân đội Bắc Việt)
đã hy sinh lại được tưởng niệm bằng danh hiệu “liệt sĩ” – những người mà cái
chết của họ là minh chứng cho sự hy sinh thiêng liêng và quên mình vì đất nước.
Theo quan điểm chính thức, liệt sĩ xứng đáng được ghi nhớ đời đời và hài cốt
của họ sẽ được chăm sóc chu đáo.
“Kể
từ đó, từ ‘tử sĩ’ được dùng để chỉ những người lính hy sinh trong hoàn cảnh
chiến tranh, nhưng cái chết của họ không được nhà nước công nhận là đã góp phần
vào lợi ích quốc gia, thậm chí có khi còn bị cho là đi ngược lại lợi ích quốc
gia. Đây là lý do tại sao thuật ngữ này được dùng cho các binh sĩ Việt Nam Cộng
hòa,” bà Tâm nói qua email.
Từ
năm 2014, truyền thông nhà nước Việt Nam đã liệt kê tên những người lính thiệt
mạng trong Hải chiến Hoàng Sa là tử sĩ, thay vì liệt sĩ. Mẹ của họ cũng không
thể nhận danh hiệu “bà mẹ Việt Nam anh hùng”, và con cái của họ không được
hưởng các ưu đãi chỉ dành riêng cho những liệt sĩ được nhà nước công nhận.
Tương tự, những người bị thương trong cuộc xung đột đẫm máu năm 1974 không được
công nhận là thương binh.
Về
phía Trung Quốc, Nghĩa trang Liệt sĩ Hải quân Tây Sa được xây dựng năm 1975 tại
Tam Á, đảo Hải Nam. Nghĩa trang được chính quyền nhân dân thành phố Tam Á chỉ
định là di tích văn hóa cấp thành phố cần bảo vệ vào năm 1990 và được cải tạo
vào năm 2016.
Lễ
tưởng niệm do chính quyền kiểm soát
Tại
Việt Nam, chính quyền sẽ quyết định ai là anh hùng, ai là thành viên của “thế
lực thù địch,” cũng như sự kiện nào đáng để tưởng niệm. Bất kỳ quan điểm nào
lệch khỏi quan điểm chính thức cũng sẽ dẫn đến nhiều hình thức trừng phạt khác
nhau, kể cả án tù. Điều 18 Luật An ninh mạng năm 2018 nghiêm cấm các hành vi
bóp méo lịch sử đã được chính quyền phê duyệt hoặc phủ nhận thành tựu cách mạng
ngay cả trong không gian ảo.
Đối
với Hà Nội, người láng giềng phía bắc vừa là hình mẫu vừa là mối đe dọa, đến
nỗi bất kỳ hành động nào nhằm tưởng niệm cuộc xung đột năm 1974 ở Biển Đông đều
có thể khiến đất nước rơi vào nguy hiểm. Theo một chỉ đạo từ trên ban xuống, lễ
tưởng niệm 40 năm Hải chiến Hoàng Sa năm 2014 tại Đà Nẵng đã bị hủy vào phút
chót vì một lý do không được công bố. Những người biểu tình năm 2014 vẫn kiên
quyết đòi tưởng niệm những người lính Việt Nam tử trận đã bị công an giải tán.
Tuy
nhiên, các sự kiện tưởng niệm tự tổ chức vẫn được phép diễn ra. Vị cựu đại tá
sau trở thành người tị nạn Vũ Văn Lộc, hiện sống ở California, cho biết “cộng
đồng hải ngoại vẫn tổ chức các sự kiện để tưởng nhớ trận chiến đẫm máu này.”
Theo
nhà nhân học Edyta Roszko, ở Việt Nam, ngay cả những sự kiện tưởng nhớ cấp địa
phương cũng không thể tổ chức tự do. “Mặc dù lễ kỷ niệm các chiến sĩ Hoàng Sa
và Trường Sa thường được đưa vào các dự án kỷ niệm, nhưng nhà nước chỉ muốn âm
thầm tổ chức những dịp lễ này, vì vấn đề tranh chấp các quần đảo đã bị chính
trị hóa cao độ,” Roszko viết trong cuốn sách xuất bản năm 2020 “Fishers, Monks
and Cadres: Navigating State, Religion, and the South China Sea in Central
Vietnam” (Ngư dân, Tu sĩ và Cán bộ: Chính trị, Tôn giáo và Biển Đông ở miền
Trung Việt Nam), dựa trên nghiên cứu thực địa của bà ở Quần đảo Lý Sơn gần
Hoàng Sa năm 2007-2008.
Năm
2014, nhà báo nổi tiếng Huy Đức và các cộng sự của mình đã tổ chức dự án gây
quỹ mang tên “Nhịp cầu Hoàng Sa” nhằm hỗ trợ gia đình những người tử trận năm
1974. Một chiến dịch khác cũng được phát động để xây nhà cho góa phụ của các
binh sĩ Việt Nam Cộng hoà thiệt mạng trong Hải chiến Hoàng Sa.
Tháng
1/2014, truyền thông nhà nước Việt Nam lần đầu tiên nhắc đến sự kiện này. Tuy
nhiên, việc công khai đề cập đến trận chiến bị lãng quên từ lâu đã khiến nước
láng giềng khổng lồ, đồng thời là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, tức
giận. Tháng 05/2014, Trung Quốc hạ đặt một giàn khoan dầu ở gần quần đảo Hoàng
Sa, gây ra các cuộc biểu tình chống Trung Quốc chưa từng có trên khắp Việt Nam.
Căng
thẳng không chỉ dừng ở bờ biển
Bất
chấp tất cả những câu chuyện tốt đẹp được truyền thông nhà nước Việt Nam đăng
tải trước, trong, và sau chuyến thăm của Tập Cận Bình tới Việt Nam vào tháng
12/2023, tranh chấp Biển Đông vẫn là một chướng ngại trong quan hệ giữa hai
nước cộng sản và cũng là đối tác chiến lược toàn diện này.
Cộng
đồng Việt Nam ở hải ngoại và những người bất đồng chính kiến tưởng nhớ Hải
chiến Hoàng Sa đã coi sự im lặng của chính quyền trước các cuộc xung đột vũ
trang với Trung Quốc là bằng chứng cho thấy họ phục tùng Bắc Kinh.
Nhưng
nếu Hà Nội thực sự có lý do để chỉ trích “chế độ bù nhìn” đã không bảo vệ được
quần đảo Hoàng Sa, thì họ cũng không thành công hơn là mấy.
Lúc
đầu, vào năm 1976, Hà Nội đã cố gắng thuyết phục Bắc Kinh công nhận chủ quyền
của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, để đổi lấy việc Hà Nội công nhận yêu
sách của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa. Chỉ sau khi nỗ lực đó thất bại,
chính phủ Việt Nam mới khẳng định yêu sách lãnh thổ đối với cả hai quần đảo.
Năm
1988, chính Hà Nội đã gánh chịu thất bại ở Biển Đông, lần này là ở quần đảo
Trường Sa. Hơn 60 binh sĩ Việt Nam thiệt mạng và 3 tàu hải quân bị đánh chìm
trong trận chiến diễn ra gần Đá Gạc Ma.
Tại
các cuộc đàm phán diễn ra sau đó, Trung Quốc cáo buộc Việt Nam không chỉ xâm
chiếm trái phép các đảo ngay từ đầu, mà còn vô ơn với nước đã gửi viện trợ
trong thời chiến, và không đáng tin cậy vì đã không giữ lời hứa.
Tại
Việt Nam, giáo dục biển đảo là bắt buộc ở tất cả các cấp học, kể cả cấp mẫu
giáo, vốn đã được phổ biến trong thập niên qua, tập trung vào việc dạy cho học
sinh những gì chính quyền muốn các em biết. Phần nội dung bị bỏ qua là toàn bộ
quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng liên tục kể từ trận chiến năm
1974.
Tuy
nhiên, Hà Nội vẫn tiếp tục nhấn mạnh yêu sách của mình ngay cả sau 50 năm. Nghị
định năm 2020 quy định rằng việc xuất bản bất kỳ tài liệu in hoặc trực tuyến
nào có bản đồ Việt Nam mà không bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ bị
phạt nặng. Hơn nữa, bất kỳ chủ thể nào vi phạm quy định này sẽ bị bêu tên công
khai trên các phương tiện truyền thông nhà nước.
Chính
quyền cũng khuyến khích ngư dân Việt Nam hoạt động trong vùng biển tranh chấp
dù không thể bảo vệ cho họ. Lực lượng Hải cảnh Trung Quốc đã đánh chìm nhiều
tàu Việt Nam và bắt giữ ngư dân ở vùng biển tranh chấp. Dù Hà Nội công khai lên
án các tàu Trung Quốc xâm phạm lãnh hải mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền và gây
nguy hiểm đến tính mạng và tài sản của ngư dân Việt Nam, trên thực tế, vẫn chưa
có nhiều động thái để bảo vệ các ngư dân.
André
Menras là một nhà làm phim độc lập 80 tuổi, từng là giáo viên ở Việt Nam Cộng
hoà trước khi Sài Gòn thất thủ. Do hoạt động phản chiến và ủng hộ Mặt trận Giải
phóng Dân tộc, ông đã bị chính quyền Việt Nam Cộng hoà trục xuất ngay trước
Hiệp định Hòa bình Paris.
Năm
2011, cùng năm ông được chính thức nhập quốc tịch Việt Nam, Menras đã được cấp
phép sản xuất bộ phim “Hoang Sa Vietnam: La Meurtrissure” (“Hoàng Sa Việt Nam:
Mất mát đau đớn”) như một tác phẩm báo chí tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ phim
nêu bật nhiều thách thức mà ngư dân Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa phải đối mặt
do tàu quân sự Trung Quốc.
Tuy
nhiên, vào tháng 11/2011, bộ phim bị cấm chiếu tại Thành phố Hồ Chí Minh, dù
trước đó nó đã tuân thủ theo luật truyền thông Việt Nam. Theo Menras, bộ phim
kể về cảnh khốn khổ suốt bao năm qua của ngư dân Việt Nam đã bị chỉ trích là
chưa thể hiện đủ tinh thần đảng và chưa khen ngợi đủ sự đóng góp của chính
quyền.
Ngoài
ra, việc chiếu phim cũng gặp phải thách thức ở Pháp. Địa điểm chiếu phim đã bị
chính quyền thành phố Montpellier đóng cửa vào phút chót vào năm 2012. Lời giải
thích từ nhà lãnh đạo thành phố là do “bộ phim đề cập đến bạo lực và xung đột
giữa hai nền văn hóa.”
“Bộ
phim của tôi không nhằm mục đích đạt được sự đồng thuận bởi thực tế là không có
sự đồng thuận,” Menras viết trong email. “Có những bộ phim tài liệu chân thực,
không có bất kỳ sự dàn dựng nào, và chúng mô tả sự bất công, áp bức, và nỗi đau
mà những người bình thường phải trải qua. Chúng cũng vạch trần sự yếu đuối của
những kẻ không bảo vệ họ. Vì vậy, bộ phim có thể vừa gây tổn thương vừa khiêu
khích. Điều này đúng vì cả lý do chính trị và thương mại, vì chúng có thể khiến
những người có quan hệ thương mại với Bắc Kinh khó chịu, lo sợ bị trả thù.”
Nhưng
sự kiểm duyệt ở Việt Nam, Pháp, và các nơi khác trên thế giới sẽ không ngăn cản
ông theo đuổi và phơi bày những sự thật phũ phàng ấy.
Menras
nói “Tôi không sợ sự thật ở tuổi 20, thế thì tại sao tôi lại sợ chúng ở tuổi
80?”
------------------------
Christelle
Nguyen
là nhà nghiên cứu phát triển ở Đông Nam Á, quan tâm về nghiên cứu chính trị
Đông Á và ngoại giao công nghệ.
Nguồn: Christelle Nguyen, “Vietnam’s
Paradox: Commemorating the Battle of the Paracels,” The Diplomat, 19/01/2024
No comments:
Post a Comment