Tôi nhận bài viết của tác gỉa Bùi Anh Trinh vào Sep
14, 2015 nhưng tôi quyết định giử đến ngày hôm nay. Có thể bài viết đã được
đăng trên online.
THẮP
NÉN HƯƠNG NHÂN NGÀY GIỖ TỔNG THỐNG NGUYỄN VĂN THIỆU
VTL September 14, 2015.
TG:
BÙI ANH TRINH
* Ngày 29-9 năm nay đã là ngày giỗ thứ 14 của Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cho tới trước khi chết Ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách
nhiệm đã làm cho mất nước, một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một người không thể
nào gánh vác. Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu thì quả là vô lý, thế
nhưng Ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm.
Ⅰ
- PHẢI CHĂNG MỸ BỎ RƠI?
Kể từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm
1975 với 3 triệu cựu chiến binh tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn người đã chết,
và 3.000 quân nhân còn mất tích. Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ
lỗi cho nhau.
Chính vì vậy mà những người quân nhân VNCH không bao
giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ
rồi, họ đã phải chết tới 58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải
nuôi 3 triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng
hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
Hai chữ “Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự
oán hận của người Việt sau khi Mỹ cắt không tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng
Minh” khác với “Phản Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi thích thì tôi giúp,
khi thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp nữa. Còn Phản Bội là phỉnh gạt, lừa đảo.
Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ Rơi VNCH còn hơn là nhận Phản Bội VNCH.
Ⅱ
- Frank Snepp, THÁNG 3 NĂM 1973.
Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định làm
đơn xin đầu quân vào CIA để tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại VN. Năm
1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn trong tư thế một nhân
viên mới vào nghề. Năm 1971 ông trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân
tích những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc Việt.
Đến năm 1972 ông bị đày đi VN vì tội đã báo trực tiếp
cho Tòa Bạch Ốc một thông tin ông đọc được trên báo của Hà Nội mà không qua các
xếp lớn của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai của Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo
và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài
Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành
sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN
trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở
thành nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA
không được phép tiết lộ.
CIA đã đưa ông ra tòa vì ông đã hành động trái với lời
tuyên thệ khi ông bước chân vào tổ chức CIA. Tòa án đã phán quyết Frank Snepp
không bị tội tiết lộ bí mật nghiệp vụ nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển
sách “Decent Interval” của Frank Snepp. Tuy nhiên phán quyết này chỉ có
hiệu lực hình thức bởi vì cả thế giới đều đã đọc Decent Interval.
Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi
ký kết Hiệp Định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết Hiệp Định, Tổng Thống Nixon
cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker. Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ
Martin: “Mỹ buộc phải bỏ khỏi Việt Nam
trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải có một
chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ. (Trang
75, nguyên văn: “The United States was obliged to crawl out of Vietnam standing
up, and to foster that illusion required the kind of conjuring and stagecraft
at which Martin so adept”). Như
vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.
Ⅲ
- Nixon THẤT HỨA VỚI Liên Xô, THÁNG 8 NĂM 1974.
Năm 1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc
Hội Mỹ bản dự thảo hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội
Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp
vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi
đưa ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được thông qua dễ dàng vì lợi ích
chung của cả hai nước, nhất là từng bước giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà
dân chúng Hoa Kỳ mong chờ.
Tuy nhiên ông đã tính lầm, Quốc Hội Mỹ đoán rằng còn
nhiều cái giá khác nữa giữa Nixon và Liên Xô, Trung Quốc, Hà Nội vào năm 1972.
Vì vậy Quốc Hội bác bỏ thẳng thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải
lòi ra những thỏa thuận khác. Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền
hành pháp để từ chối.
Vì vậy Quốc Hội có một cách khác để moi ra những gì
mà Nixon đã cam kết với LX, TQ và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ
Watergate để triệu tập một Ủy ban điều tra đặc biệt về sai phạm của Nixon trong
vụ nghe lén, nhờ đó công tố viên của ủy ban điều tra có quyền bắt Nixon phải
đưa ra tất cả những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và cả Hà Nội.
Nixon chỉ còn
có cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và Kissinger đã có những
thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép Quốc Hội. Một khi ông từ chức thì những cam kết của ông trở thành vô hiệu lực. Quốc
Hội sẽ không còn cớ để truy xét.
Sau khi Nixon từ chức thì Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông
qua đạo luật cấm HK buôn bán với các nước Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo luật
Jackson-Vanik). Sự trở mặt của Quốc Hội Mỹ đã khiến Liên Xô tức giận bởi vì những
cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đã không được thi
hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại Tướng Kulikov của Liên Xô đến Hà Nội để xúi Hà
Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí.
Ⅳ
- HÀ NỘI CAY ĐẮNG.
Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp Định Paris
thì Hà Nội ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô kiện, trao
trả tù binh VNCH để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi
đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt
trận GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ.
Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là quân đội
CSVN vẫn ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê Nam Việt
Nam. Biên giới hai miền Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve
1954.
Nhìn bề mặt của Hiệp Định Paris quá vô lý cho nên giới
quan sát quốc tế thừa biết bên trong phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau
này vào năm 1977 Tổng Thống Jimmy Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng
sau Hiệp Định Paris được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết Hiệp Định
Paris 1973. Vào tháng 10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon
& Phạm Văn Đồng.
Theo đó thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc
Việt 3,25 tỉ USD và viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong
vòng 30 ngày sau khi người tù binh HK cuối cùng rời khỏi VN thì hai bên sẽ thiết
lập xong hệ thống viện trợ tái thiết, và trong vòng 60 ngày sau đó thì lập xong
hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
Bản mật ước do đích thân Kissinger mang tới Hà Nội
cho Phạm Văn Đồng ký nhận. Từ đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món tiền của Kissinger
và đến cuối năm 1974, Liên Xô cử tướng Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm
Miền Nam thì có nghĩa là Hiệp Định Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội
biếu không 591 tù binh Hoa Kỳ mà chẳng nhận được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu
gian khổ, hằng triệu người chết, hằng chục tỉ đô la nợ chiến phí… đến nay chỉ
còn là con số không (sic).
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến tranh trở lại
nhưng Lê Duẩn và tập đoàn lãnh đạo CSVN thực sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc
đã kiệt sức, trong 5 năm nhà nước đã đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng,
bòn vét nhân lực đến độ phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời
đàn bà góa… thì lấy đâu để gây chiến tranh trở lại.
*(Theo hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn Thái thì cho
tới năm 1974 Hà Nội đã động viên đến 16% dân số, không thể nào động viên thêm
được nữa. Trong khi Miền Nam là 5,88%)
Ⅴ
- HẾT ĐẠN VÀ HẾT NHIÊN LIỆU.
Bắt đầu từ năm 1975 Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường
trình cho Ngũ Giác Đài về những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến
năm 1983 mới được in thành sách với tựa đề “The Final Collapse” và hai
mươi năm sau, 2003 The Final Collapse được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch
ra tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa”. Trong sách có
kèm theo những chú giải mới nhất của Đại Tướng Cao Văn Viên. “Một sự thực không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu
vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài: Cao Văn Viên, The
Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Năm 1974 tháng Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng
1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng
tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp
để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa
tới bí lối” (Frank Snepp, Decent Interval, trang 95).
Tướng John Murray là Tư Lệnh cuối cùng của quân đội
Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Ông đến Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973, sang đầu
năm 1974 ông và Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện
trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. Tuy nhiên Ngũ
Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô la nhưng theo các
chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.
Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John
Murray họp buổi họp chót với Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng
Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lãnh của Bộ
TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn
sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng
lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi
hành nổi". Sau buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ
Trưởng Bộ Kế Hoạch của VNCH) thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất
Theo Lượng Viện Trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5
năm 1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là
tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 40
năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến (tối kiến) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Sự thực Tổng Thống đã bị báo chí Mỹ cố tình gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không
thể lên tiếng thanh minh.
Năm 1974, ngày 24-12: Theo hồi ký của Đại Tá Phạm
Bá Hoa " Ngày 24-12-1974, lúc quân CSVN đang tấn công Phước Long sang
ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng Giáng Sinh được Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu
Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, tổ chức trên lầu của Câu lạc Bộ trong BTTM".
Khách tham dự gồm có Tướng Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng
Quân Y Phạm Hà Thanh; Tướng Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại Tá Phạm Kỳ Loan (Tổng
Cục Phó Tiếp Vận); Đại Tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận); Đại
Tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng Smith); Trung Tá Nguyễn Đình Bá (Chánh Văn Phòng của
Tướng Khuyên).
Thiếu Tướng Smith tiết lộ rằng: “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300 triệu
đollar để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan và gia đình, nhưng thời
gian thì chưa rõ” (Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4,
trang 264). Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các nhân vật trong bữa
tiệc đều còn sống mạnh khỏe nhưng không ai phản đối, kể cả Tướng Smith; chứng tỏ
chuyện này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã
được lên giàn trước khi mất Phước Long chứ không phải là sau khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính toán sẵn kế
hoạch để cho VNCH sụp đổ trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân sách
chi dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước
Long là: “Nhà Trắng nói rằng: Tổng Thống Pho không có ý vi phạm những điều cấm
chỉ (của Quốc Hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi
ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng
tuyên bố: “Cho kẹo quân Mỹ cũng không dám trở lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại
Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một
tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường
vào Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân VNCH thua
tại Phước Long là do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cố tình bỏ Phước Long để thử
xem phản ứng của Mỹ. Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ
biểu quyết ngưng viện trợ quân sự cho VNCH.
Ⅵ
- Và TÌNH HÌNH
THỰC SỰ VÀO THÁNG 3 NĂM 1975:
- Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp
đầu tuần của Bộ Ngoại Giao HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “Lấy
Có” cho Cam Bốt: “Chính Phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính
khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách
chúng ta vô trách nhiệm”. (Frank Snepp, Decent Interval, trang 175). *(Nguyên
văn: “…he say, the Lon Nol Government was on the brink of collapse, it was
essential to keep open the aid pipeline so no one could later blame the United
States for the disaster”).
– Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức
Ngoại Giao HK trước khi ông ta lên đường đi Trung Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc
Hội tiếp tục duy trì viện trợ (Lấy Có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu
vãn hai nước đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp,
Decent Interval trang 176). *(Nguyên Văn: Do every thing possible to ensure
that Congress lived up our aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because
the two countries were necessarily salvageable, but precisely because they
might not be).
Hai ngày sau khi Kissinger nói câu này thì Văn Tiến
Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.
Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp
đổ do không còn viện trợ. Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì đến ngày
30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không còn Gạo và không còn Đạn (Tài Liệu The Final
Collapse của Đại Tướng Cao Văn Viên). Vì thế Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự
tan rã trước khi hết Gạo và Đạn trước tháng Sáu năm 1975. Lúc đó thiên hạ sẽ
nghĩ rằng Quân Đội Sài Gòn đã thua chạy trước sức tiến công vũ bão của quân Hà
Nội.
Ⅶ
- THẾ BẮT BUỘC của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Năm 1975 ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột.
Theo Đại Tướng Cao Văn Viên "Ngày 11-3 Tổng Thống Thiệu mời các Tướng
Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại Dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt
bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975". Tướng
Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của Tổng Thống Thiệu cho
chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng
Thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người
chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
*“… Tổng Thống Thiệu phác họa sơ: …Một vài phần đất
quan trọng đang bị Cộng Sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban
Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại…” (Cao Văn Viên, The
Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không
có một phản ứng nào … . Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc
chiến tiếp tục và biểu quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy
ra. Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc” (trang 132).
Các đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì sao Tổng
Thống Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như Vùng 2. Và vì sao Tướng Viên không nhiệt
tình tham gia kế hoạch của Tướng Thiệu.
Cuối cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm
mất nước cho Tổng Thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH.
Giờ đây đã 40 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.
~TG: BÙI ANH TRINH~
-------------------------------
Angels,
John K. và Lohfeldt, Heinz P. - Der
Spiegel 10-12-1979
Phạm Thị Hoài dịch
Posted on September 29, 2015 by editor — 0
Comments
David Lamb - LA
Times 01-10-2001
Người dịch: Trần Văn Minh
Posted by adminbasam on
29/09/2015
No comments:
Post a Comment