Angels, John K. và Lohfeldt, Heinz P. - Der
Spiegel
Phạm Thị Hoài dịch
Posted on September 29, 2015 by editor — 0
Comments
“Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích của
chính phủ Mỹ. Là Tổng thống Nam Việt Nam, bổn phận của tôi là bảo vệ những lợi
ích sống còn của đất nước tôi.” – Cựu Tổng thống
VNCH Nguyễn Văn Thiệu.
Cựu Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu về cuốn hồi ký
của Kissinger và Chiến tranh Việt Nam
DCVOnline | Cuối năm 1979, tuần báo Der Spiegel số
50 đã đăng bài phỏng vấn cựu Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu, dài
9 trang, do hai biên tập viên Angels, John K. và Lohfeldt, Heinz P. Thực
hiện. Chúng tôi xin giới thiệu đến bạn đọc bản dịch sang Việt ngữ của Phạm Thị
Hoài.
*
Cựu TT Nguyễn văn
Thiệu trả lời phỏng vấn của Der Spiegel tại tư gia ở Anh Quốc, 1979. Nguồn: Der
Spiegel Số 50/1979, trang 197
Hòa
bình của nấm mồ
Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trả lời phỏng vấn của Spiegel 1979
Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trả lời phỏng vấn của Spiegel 1979
Spiegel: Thưa ông Thiệu, từ 1968 đến 1973 Hoa Kỳ đã nỗ lực thương lượng
hòa bình cho Việt Nam. Trong cuốn hồi ký của mình, ông Henry Kissinger, trưởng
phái đoàn đàm phán Hoa Kỳ đã dùng nhiều trang để miêu tả việc ông, Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa, đã chống lại những nỗ lực nhằm đem lại hòa bình cho một cuộc
chiến đã kéo dài nhiều năm, với hàng triệu nạn nhân và dường như là một cuộc
chiến để “bóp nát trái tim Hoa Kỳ”. Vì sao ông lại cản trở như vậy?
Nguyễn
Văn Thiệu: Nói thế là tuyệt đối vô nghĩa. Nếu tôi cản trở
thì đã không có Hiệp định Hòa bình năm 1973 – mặc dù, như ai cũng biết, đó
không phải là một nền hòa bình tốt đẹp; hậu quả của nó ở Việt Nam là chứng chỉ
rõ ràng nhất. Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích của chính phủ Mỹ. Là
Tổng thống Nam Việt Nam, bổn phận của tôi là bảo vệ những lợi ích sống còn của
đất nước tôi.
Tôi đã nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và TS
Kissinger rằng, đối với một cường quốc như Hoa Kỳ thì việc từ bỏ một số vị trí
không mấy quan trọng ở một quốc gia bé nhỏ như Nam Việt Nam không có gì đáng kể.
Nhưng với chúng tôi, đó là vấn đề sinh tử của cả một dân tộc.
.
Spiegel: Kissinger không phủ nhận rằng cuối cùng ông cũng đồng ý. Nhưng
ông ấy cũng nói rằng phải đàm phán lâu như vậy vì ông cản trở nhiều, rằng ông đồng
ý với các đề xuất của Mỹ chỉ vì ông chắc mẩm rằng đằng nào thì Hà Nội cũng sẽ
bác bỏ.
Nguyễn
Văn Thiệu: Không đúng như vậy. Để chấm dứt một cuộc chiến
tranh đã kéo dài gần 30 năm, người ta cần nhiều thời gian hơn là hai, ba ngày
hay hai, ba tháng. Tôi hiểu rõ rằng đối với người Mỹ đã đến giúp chúng tôi, đây
là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử của họ. Có lẽ vì thế mà họ vội vã như vậy.
Nhưng điều chúng tôi cần là một nền hòa bình lâu dài.
.
Spiegel: Kissinger có ý cho rằng ông không thực sự muốn ký kết một thỏa
thuận về hòa bình, đúng ra ông ngầm mong phía miền Bắc cũng sẽ cứng đầu như
ông. Kissinger viết rằng ông đồng ý với nhiều đề xuất từ phía Mỹ – trong tinh
thần sẵn sàng không tuân thủ, chỉ vì trong thâm tâm ông không tin rằng hòa bình
sẽ được ký kết. Có phải là trong khi đàm phán, ông đã bịp, với hy vọng là sẽ
không bao giờ phải ngửa bài lên?
Nguyễn
Văn Thiệu: Không. Sao lại có thể nói là một dân tộc đã chịu
đựng bao nhiêu đau khổ suốt 30 năm lại muốn kéo dài cuộc chiến? Kissinger muốn
xúc tiến thật nhanh mọi việc để Mỹ có thể rút quân và tù binh Mỹ được thả. Mà
có lẽ mục đích của chính phủ Mỹ cũng là cao chạy xa bay. Họ thì có thể bỏ chạy.
Nhưng chúng tôi thì phải ở lại Nam Việt Nam.
Chúng tôi có quyền chính đáng để đòi hỏi một hiệp định
hòa bình toàn diện. Không phải là vài ba năm hòa bình, rồi sau đó lại 30 năm
chiến tranh.
.
Spiegel: Vậy tại sao ông lại đi trước cả người Mỹ và tự đề nghị Hoa Kỳ
rút quân trong cuộc họp tại đảo Midway ở Thái Bình Dương tháng Sáu 1969, theo
tường thuật của Kissinger?
Nguyễn
Văn Thiệu: Trước khi họp ở Midway, việc chính phủ Mỹ dự định
rút quân đã không còn là điều bí mật. Cho phép tôi nhắc để các ông nhớ lại, tin
tức về việc Mỹ sẽ rút một số quân đã loan khắp thế giới, trước cuộc họp ở
Midway. Vì sao? Theo tôi, chính phủ Mỹ muốn thả bóng thăm dò, tiết lộ thông tin
trước cho báo chí và đẩy chúng tôi vào sự đã rồi.
.
Spiegel: Tức là ông đã nắm được tình hình?
Nguyễn
Văn Thiệu: Đúng thế. Cuộc họp ở Midway nhằm hai mục đích.
Thứ nhất, cho hai vị tân tổng thống cơ hội làm quen và bàn về đề tài Việt Nam.
Điểm thứ hai đã vạch rất rõ là bàn về việc rút những toán quân Mỹ đầu tiên. Tôi
đã không hình dung sai điều gì và đã làm chủ tình thế. Không có gì phải lo lắng,
và tôi đã rất vững tâm.
.
Spiegel: Khi đề xuất Mỹ rút quân, ông có thật sự tin rằng Nam Việt Nam có
thể chiến đấu một mình và cuối cùng sẽ chiến thắng trong một cuộc chiến mà hơn
540.000 lính Mỹ cùng toàn bộ guồng máy quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ không thắng
nổi không? Chuyện đó khó tin lắm.
Nguyễn
Văn Thiệu: Không, đề xuất đó không phải của tôi. Tôi chỉ
chấp thuận. Tôi chấp thuận đợt rút quân đầu tiên của Mỹ, vì Tổng thống Nixon bảo
tôi là ông ấy gặp khó khăn trong đối nội và việc rút quân chỉ mang tính tượng
trưng. Ông ấy cần sự ủng hộ của dư luận và của Quốc hội. Nhưng tôi cũng bảo ông
ấy rằng: Ông phải chắc chắn rằng Hà Nội không coi việc bắt đầu rút quân đó là dấu
hiệu suy yếu của Hoa Kỳ.
.
Spiegel: Và ông không nghĩ đó là khởi đầu của việc rút quân toàn bộ?
Nguyễn
Văn Thiệu: Không. Tôi đã hình dung được rằng, đó là bước
đầu tiên để cắt giảm quân số. Nhưng không bao giờ tôi có thể nghĩ Mỹ sẽ rút hẳn
và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đã trình bày với Tổng thống Nixon rằng việc cắt giảm
quân số sẽ phải tiến hành từng bước, như khả năng chiến đấu và việc tiếp tục củng
cố Quân lực Việt Nam Cộng hòa cho phép – tương ứng với những viện trợ quân sự
và kinh tế có thể giúp Nam Việt Nam tự đứng trên đôi chân của mình.
Quan trọng hơn, tôi đã bảo ông ấy phải yêu cầu Hà Nội
có một hành động tương ứng đáp lại. Phía Mỹ đồng ý với tôi ở mọi điểm; về một sự
rút quân từng bước và của cả hai phía…
Tổng thống Nixon và
TT Thiệu tại Hội nghị Midway, 1969. Nguồn: Der Spiegel số 50/1979, trang 199.
Spiegel: … và mang tính tượng trưng?
Nguyễn
Văn Thiệu: Tôi hiểu rõ rằng cuộc chiến ở Việt Nam cũng là
một vấn đề đối nội của Hoa Kỳ. Và Tổng thống Nixon giải thích rằng ông ấy cần một
cử chỉ tượng trưng để giải quyết vấn đề đó. Trước đó một tuần tôi đến Seoul và
Đài Loan, tôi đã nói với Tổng thống Park Chung Hee và Tổng thống Tưởng Giới Thạch
rằng tôi hy vọng việc rút quân sắp bàn với Tổng thống Nixon ở Midway chỉ là một
sự cắt giảm quân số mang tính tượng trưng. Song tôi cũng lưu ý rằng nếu Hoa Kỳ
muốn rút hẳn thì chúng tôi cũng không thể ngăn cản. Vậy thì đề nghị họ rút quân
từng bước, đồng thời viện trợ để củng cố một quân đội Nam Việt Nam hùng mạnh và
hiện đại, có thể thay thế người Mỹ, sẽ là hợp lý hơn. Không bao giờ tôi đặt giả
thiết là lính Mỹ sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn.
.
Spiegel: Mỹ vẫn đóng quân ở Hàn Quốc và Tây Đức mà.
Nguyễn
Văn Thiệu: Nhưng chúng tôi là một dân tộc rất kiêu hãnh.
Chúng tôi bảo họ rằng, chúng tôi cần vũ khí và viện trợ, nhưng nhiệt huyết và
tính mạng thì chúng tôi không thiếu.
.
Spiegel: Ông đánh giá thế nào về tình thế của ông khi ấy? Vài tháng trước
đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird vừa đưa ra một khái niệm mới: “Việt
Nam hóa chiến tranh”. Trước đây người Mỹ chỉ nói đến việc “phi Mỹ hóa” cuộc chiến.
Cái khái niệm mới ấy đã thể hiện rõ dự định rút khá nhanh của người Mỹ rồi,
đúng không?
Nguyễn
Văn Thiệu: Khi đến Sài Gòn vào tháng Bảy 1969, ông Nixon
đã nhắc lại rằng ông ấy cần được sự hậu thuẫn của dư luận trong nước Mỹ. Tôi hiểu
ông ấy. Nhưng ông ấy không hề tuyên bố rằng việc rút quân là một lịch trình
mang tính hệ thống do sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ nói với tôi về những khó
khăn trong nước, ở Mỹ, và đề nghị tôi giúp. Ông ấy bảo: “Hãy giúp chúng tôi
giúp ông.” Tôi đáp: “Tôi giúp ông giúp chúng tôi.” Trong lần họp mặt đó, chúng
tôi lại tiếp tục bàn về việc rút quân từng bước.
.
Spiegel: Nhưng không đưa ra một lịch trình cụ thể?
Nguyễn
Văn Thiệu: Không. Và ông Nixon lại hứa rằng việc rút quân
của Mỹ sẽ phải đi đôi với những hành động tương ứng của Bắc Việt và phải phù hợp
với khả năng phòng thủ của Nam Việt Nam cũng như phải phù hợp với việc Mỹ tiếp
tục viện trợ quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam.
.
Spiegel: Ở thời điểm đó ông có nhận ra rằng nếu thấy cần thì Mỹ cũng sẽ sẵn
sàng đơn phương rút quân không?
Nguyễn
Văn Thiệu: Có, tôi đã ngờ. Nhưng lúc đó tôi vẫn rất vững
tâm và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi.
.
Spiegel: Có lẽ ông tin thế là phải. Cuốn hồi ký của Kissinger cho thấy
khá rõ rằng chính phủ Nixon không thể dễ dàng “đình chỉ một dự án liên quan đến
hai chính phủ, năm quốc gia đồng minh và đã khiến 31,000 người Mỹ phải bỏ mạng,
như thể ta đơn giản chuyển sang một kênh TV khác.”
Rõ ràng là người Mỹ muốn thoát khỏi Việt Nam bằng
con đường đàm phán. Chỉ trong trường hợp cần thiết họ mới muốn đơn phương rút
quân. Ông có đưa ra yêu sách nào liên quan đến những cuộc thương lượng giữa
Washington và Hà Nội không?
Nguyễn
Văn Thiệu: Chúng tôi đã chán ngấy chiến tranh và quyết
tâm chấm dứt nó qua đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những kẻ xâm lăng đã tràn vào đất
nước của chúng tôi phải rút đi. Tất cả chỉ có vậy.
.
Spiegel: Ông đã oán trách rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975
chủ yếu là do sau Hiệp định Paris, miền Bắc vẫn được phép đóng quân tại miền
Nam. Ông khẳng định rằng mình chỉ chấp nhận sự hiện diện đó của miền Bắc trong
quá trình đàm phán, còn sau khi ký kết thì Hà Nội phải rút quân.
Nhưng Kissinger lại khẳng định trong hồi ký rằng ông thừa biết việc Hà Nội sẽ tiếp tục trụ lại ở miền Nam, và cho đến tận tháng Mười 1972 ông cũng không hề phản đối những đề xuất của phía Mỹ liên quan đến điểm này.
Nhưng Kissinger lại khẳng định trong hồi ký rằng ông thừa biết việc Hà Nội sẽ tiếp tục trụ lại ở miền Nam, và cho đến tận tháng Mười 1972 ông cũng không hề phản đối những đề xuất của phía Mỹ liên quan đến điểm này.
Nguyễn
Văn Thiệu: Đó là một lời nói dối hết sức vô giáo dục của
Kissinger, rằng tôi chấp thuận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam. Nếu ngay từ
đầu tôi đã chấp thuận như Kissinger nói thì lúc ông ấy cho tôi xem bản dự thảo,
trong đó không có điều khoản nào về việc rút quân của Bắc Việt, tôi đã chẳng phản
đối quyết liệt như thế.
Điểm then chốt nhất mà tôi dốc sức bảo vệ, từ đầu
cho đến khi kết thúc đàm phán, chính là yêu cầu Hà Nội phải rút quân. Tôi đã
tuyên bố rõ với Kissinger là nếu không đạt được điều đó thì không có ký kết.
Sau nhiều ngày tranh luận gay gắt, cuối cùng ông ta
bảo: “Thưa Tổng thống, điều đó là không thể được. Nếu được thì tôi đã làm rồi.
Vấn đề này đã đặt ra ba năm trước, nhưng phía Liên Xô không chấp nhận.” Tôi hiểu
ra rằng chính phủ Mỹ đã nhượng bộ trước yêu sách của Liên Xô, và đó là nỗi thất
vọng lớn nhất của tôi.
8/17/1972 – Sài
Gòn, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu trong một cuộc họp với Mỹ cố vấn tổng
thống Mỹ Henry Kissinger tại Dinh Độc Lập. Trước đó trong ngày Kissinger đã hội
ý với các tư lệnh hàng đầu và các nhà ngoại giao của Mỹ. Hình: © Bettmann/CORBIS
Spiegel: Có lẽ Liên Xô không thể làm khác, vì Hà Nội không chấp nhận coi
Nam Việt Nam là một quốc gia khác, và một thời gian dài họ còn phủ nhận việc họ
đã đưa quân đội chính quy vào miền Nam.
Nguyễn
Văn Thiệu: Chúng tôi đã chiến đấu hơn 20 năm và học được
rằng, đừng bao giờ tin lời Nga Xô và Hà Nội. Bắc Việt đóng quân ở cả Lào,
Campuchia và Nam Việt Nam, tôi tin rằng một người mù cũng nhìn ra điều đó. Muốn
chấm dứt chiến tranh thì chúng ta phải nhìn vào hiện thực chứ không thể chỉ
nghe lời kẻ địch.
.
Spiegel: Ông có lập luận như thế với Kissinger không?
Nguyễn
Văn Thiệu: Tất nhiên, và với cả Tướng Haig nữa. Tôi bảo
ông ấy thế này: “Ông Haig, ông là tướng, tôi là tướng. Ông có biết một hiệp định
hòa bình nào trong lịch sử lại cho phép kẻ xâm lăng tiếp tục đóng quân tại lãnh
thổ mà nó xâm lược không? Ông có cho phép Liên Xô vào Hoa Kỳ đóng quân rồi
tuyên bố rằng ông đã ký kết thành công một hiệp định hòa bình với Liên Xô
không?”
.
Spiegel: Ông ấy trả lời sao?
Nguyễn
Văn Thiệu: Ông ấy không trả lời được. Mà trả lời thế nào
cơ chứ, chuyện đó hoàn toàn vô lý. Còn gì mà nói nữa.
.
Spiegel: Nhưng Kissinger thì có câu trả lời trong hồi ký. Ông ấy viết rằng
khó mà bắt Hà Nội rút quân, vì họ hoàn toàn không sẵn sàng từ bỏ trên bàn đàm
phán những thứ mà họ không mất trên chiến trường. Nhưng ông ấy cũng nói rằng
trong Hiệp định Paris có một điều khoản không cho phép xâm lấn. Ông ấy đi đến kết
luận rằng “lực lượng miền Bắc sẽ tự nhiên tiêu hao sinh lực và dần dần biến mất.”
Nguyễn
Văn Thiệu: Tôi thấy chính phủ Mỹ và đặc biệt là TS
Kissinger không hề rút ra được bài học nào khi phải đàm phán với cộng sản, sau
những kinh nghiệm đau thương năm 1954 giữa Pháp và cộng sản Việt Nam và từ Chiến
tranh Triều Tiên. Họ cũng không học được gì từ những cuộc đàm phán về Lào và Campuchia
và cũng không nắm bắt được là nên xử sự thế nào với cộng sản và cần phải hiểu
chiến lược và chiến thuật của cộng sản ra sao.
Tức là ta lại phải trở về với vấn đề rằng, vì sao TS
Kissinger, người đại diện cho một quốc gia lớn và tự cho mình là nhà thương
thuyết giỏi giang nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt đóng tại miền Nam sẽ
không xâm lấn. Sao ông ấy có thể tin như vậy cơ chứ?
Ông ấy đủ sức kiểm soát từng tấc đất trên biên giới
của Campuchia, và của Lào, và của Nam Việt Nam à? Dù có cả triệu nhân viên quốc
tế giám sát, chúng tôi cũng không bao giờ có thể khẳng định là đã có đủ bằng chứng
rằng không có xâm lấn. Sao ông ấy lại có thể tin những gì Bắc Việt nói. Ông ấy
có thể tin lời cộng sản, nhưng chúng tôi thì không. Vì thế mà tôi đã cương quyết
đòi Bắc Việt phải rút quân. Nếu họ thực sự muốn hòa bình thì họ ở lại miền Nam
làm gì?
.
Spiegel: Vậy Kissinger nói sao?
Nguyễn
Văn Thiệu: Còn nói gì được nữa? Ông ấy và chính phủ Mỹ chỉ
muốn chính xác có một điều: rút khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt và đảm bảo việc
trao trả tù binh Mỹ. Họ bảo chúng tôi là họ mong muốn một giải pháp trong danh
dự, nhưng sự thực thì họ chỉ muốn bỏ của chạy lấy người. Nhưng họ lại không muốn
bị người Việt và cả thế giới kết tội là đã bỏ rơi chúng tôi. Đó là thế kẹt của
họ.
.
Spiegel: Kissinger viết rằng, ngay sau Chiến dịch Xuân-Hè 1972 của Hà Nội,
các bên dường như đã đổi vai. Hà Nội đột nhiên muốn đàm phán trở lại, còn Sài
Gòn thì muốn đánh cho đến khi giành toàn thắng.
Nguyễn
Văn Thiệu: Hoàn toàn vô nghĩa! Ông TS Kissinger hiểu thế
nào là chiến thắng? Bắc Việt đã đem chiến tranh vào miền Nam. Chúng tôi yêu cầu
họ phải rút quân. Thế là chiến thắng hay sao? Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt
tự coi mình là tù binh của miền Nam. Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt bồi thường
cho tổn thất chiến tranh. Tôi chưa bao giờ đòi hỏi Bắc Việt giao nộp lãnh thổ.
Tôi chưa bao giờ đòi có chân trong chính phủ ở Hà Nội. Vậy ông Kissinger hiểu
thế nào về chiến thắng và toàn thắng?
.
Spiegel: Về vấn đề rút quân của miền Bắc, 31 tháng Năm 1971 là một ngày
quan trọng. Kissinger cho biết là khi đó, trong các cuộc họp kín, Mỹ đã đưa ra
yêu cầu hai bên cùng rút quân. Trong hồi ký, ít nhất ba lần TS Kissinger viết rằng
không những ông được thông báo trước, mà ông còn chấp thuận.
Nguyễn
Văn Thiệu: Tôi không bao giờ chấp thuận việc rút quân đơn
phương. Từ cuộc họp ở Midway, tôi luôn luôn yêu cầu rút quân từng bước và cả
hai bên cùng rút. Hoa Kỳ đã thay đổi lập trường và tìm cách ép chúng tôi, với
những chiến thuật mà họ thường sử dụng, bằng cách huơ thanh gươm Damocles trên
đầu tôi, chẳng hạn họ đem công luận Mỹ ra đe tôi, họ bảo: “Hình ảnh của ông tại
Hoa Kỳ hiện nay rất tồi tệ!” Hoặc: “Quốc hội muốn cắt giảm viện trợ.” Vân vân.
Họ áp dụng đúng những chiến thuật đã biết, tiết lộ thông tin cho báo giới và đặt
tôi trước sự đã rồi.
Nếu tôi từ chối, công luận sẽ quay ra chống tôi:
“Ông ta đòi quá nhiều, ông ta sẽ không bao giờ cho Mỹ được rút, ông ta sẽ không
bao giờ cho tù binh Mỹ được trở về.” Thế là tôi luôn phải chấp thuận. Không phải
tự nguyện, mà miễn cưỡng. Tôi phản đối làm sao được, khi lần nào họ cũng bảo rằng:
“Ông mà chống thì sẽ bị cắt viện trợ.”
.
Spiegel: Kissinger viết rằng trước bất kỳ một quyết định dù dưới hình thức
nào, phía Mỹ cũng hỏi ý kiến ông trước.
Nguyễn
Văn Thiệu: Vâng, họ hỏi ý kiến tôi, nhưng chắc chắn không
phải là để nghe tôi nói “Không”, nếu đó là những quyết định phục vụ cho lợi ích
của Hoa Kỳ. Họ ưa gây sức ép hơn, và đạt được gần như mọi thứ bằng cách đó.
.
Spiegel: Bây giờ Kissinger cay đắng chỉ trích về Chiến dịch Hạ Lào năm
1971. Ông ấy viết rằng, ông đã đồng ý rằng chiến dịch này nhất định phải thực
hiện trong mùa khô. Vậy ý tưởng đó ban đầu là của ai?
Nguyễn
Văn Thiệu: Của người Mỹ. Trước đó khá lâu, chúng tôi từng
có ý định thực hiện, nhưng không đủ khả năng tiến hành một mình. Đến khi phía Mỹ
đề xuất thì chúng tôi sẵn sàng đồng ý, để sớm chấm dứt chiến tranh. Chiến dịch
đó do liên quân Việt-Mỹ thực hiện và được vạch ra rất rõ ràng: Chúng tôi tác
chiến tại Lào, còn phía Mỹ thì hỗ trợ tiếp vận từ Việt Nam và từ biên giới.
.
Spiegel: Vì sao? Vì Quốc hội Mỹ có luật cấm quân đội Mỹ xâm nhập lãnh thổ
Lào?
Nguyễn
Văn Thiệu: Vâng, tôi tin là vậy. Nhưng cũng vì chúng tôi
không có đủ phương tiện để tiếp tế cho binh lính, và nhất là để cứu thương binh
ra ngoài. Việc đó chỉ có thề thực hiện bằng trực thăng, và chỉ phía Mỹ mới có đủ
trực thăng. Không có họ thì không đời nào chúng tôi đồng ý thực hiện chiến dịch
tại Lào.
.
Spiegel: Kissinger viết rằng quân của ông gặp khó khăn khi yêu cầu không
quân hỗ trợ, vì gần như không có báo vụ viên nói được tiếng Anh.
Nguyễn
Văn Thiệu: Hoàn toàn không có vấn đề gì với việc hỗ trợ của
không quân. Đôi khi không có thì chúng tôi cũng không lo lắng; chúng tôi có thể
dùng pháo binh. Vấn đề là: trong ba ngày mở đầu chiến dịch, phía Mỹ đã mất rất
nhiều phi công trực thăng. Vì thế mà họ chần chừ, không bay đúng thời điểm và ở
quy mô cần thiết. Điều đó thành ra một vấn đề lớn với quân lực Nam Việt Nam.
.
Spiegel: Tinh thần binh lính bị suy sụp?
Nguyễn
Văn Thiệu: Chúng tôi không đem được binh lính tử trận và thương
binh ra ngoài. Không phải chỉ tinh thần binh lính, mà cả tiến độ của chiến dịch
cũng bị ảnh hưởng.
.
Spiegel: Kissinger nêu ra một lý do khác. Rằng ông đã lệnh cho các sĩ
quan chỉ huy phải thận trọng khi tiến về hướng Tây và ngừng chiến dịch nếu quân
số tổn thất lên tới 3000. Kissinger viết rằng nếu phía Mỹ biết trước điều đó
thì không đời nào họ đồng ý tham gia chiến dịch này.
Nguyễn
Văn Thiệu: Đối với một quân nhân, định trước một tổn thất
về quân số là điều phi lý. Nếu TS Kissinger nói thế thì ông ấy thật giàu trí tưởng
tượng. Chúng tôi chỉ có thể tiến về phía Tây trong giới hạn mà trực thăng cứu
viện có thể bay đến. Kissinger bảo là chúng tôi đã rút quân mà không báo cho
phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể triệt thoái trên 10,000 quân mà họ không hay
biết gì?
.
Spiegel: Tức là ông đã thông báo cho họ?
Nguyễn
Văn Thiệu: Ồ, tất nhiên. Để tôi kể cho ông nghe một câu
chuyện. Hồi đó tờ Time hay tờ Newsweek có đăng bức hình một người lính Nam Việt
Nam đang bám vào càng một chiếc trực thăng cứu viện. Bên dưới đề: “Nhát như
cáy”. Tôi chỉ cười. Tôi thấy nó tệ. Không thể ngăn một người lính lẻ loi hành động
như vậy được. Nhưng báo chí lại kết tội lính Nam Việt Nam là hèn nhát và đồng
thời giấu biến sự thật về tinh thần chiến đấu sút kém của phi công trực thăng Mỹ
trong chiến dịch này.
http://dcvonline.net/wp-content/uploads/2015/09/TTT_spiegel31.jpg
Tâm hình đoạt giải (APME’s 38th annual meeting, 21/10/1971) của phóng viên AP Holger Jensen chụp cảnh một quân nhân Việt Nam bán càng trực thăng tải thường để thoát khỏi mặt trận ở Hạ Lào. Nguồn: Holger Jensen.
Tâm hình đoạt giải (APME’s 38th annual meeting, 21/10/1971) của phóng viên AP Holger Jensen chụp cảnh một quân nhân Việt Nam bán càng trực thăng tải thường để thoát khỏi mặt trận ở Hạ Lào. Nguồn: Holger Jensen.
Spiegel: Một điểm gây rất nhiều tranh cãi giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam là
vấn đề ngưng bắn. Theo cuốn hồi ký của Kissinger thì ngay từ mùa Hè 1970 chính
phủ Mỹ đã thống nhất về việc sẽ đề xuất một thỏa thuận ngưng bắn tại các chiến
tuyến hiện có. Kissinger khẳng định rằng ông không chỉ chấp thuận mà còn ủng hộ
đề xuất này.
Nguyễn
Văn Thiệu: Đúng như vậy, tôi cũng cho rằng ngưng bắn phải
là bước đầu tiên để đáp ứng một hiệp định hòa bình. Nhưng ngưng bắn ngay lập tức
– và tôi xin nhắc lại: ngay lập tức – thì tôi không bao giờ đồng ý với
Kissinger. Tôi bảo, chúng ta phải cân nhắc hết sức kỹ lưỡng việc này. Không thể
thực hiện ngưng bắn trước khi tính kỹ việc ai sẽ giám sát việc ngưng bắn, nếu
ai vi phạm thì hậu quả sẽ thế nào, hai bên sẽ đóng quân ở đâu, vân vân.
.
Spiegel: Kissinger viết: “Khi đó chúng tôi vẫn tưởng rằng chúng tôi và
Thiệu cùng đồng hành hợp tác.” Phía Mỹ đã không hiểu rằng ông đem những “chiến
thuật né tránh” mà “người Việt thường áp dụng với người ngoại quốc” ra dùng.
Nguyễn
Văn Thiệu: Chúng tôi là một nước nhỏ, gần như mọi thứ đều
nhờ ở một đồng minh lớn và vẫn tiếp tục phải xin viện trợ dài hạn của đồng minh
đó, không bao giờ chúng tôi lại cho phép mình dùng những thủ đoạn nào đó.
.
Spiegel: Khi Mỹ đã rút, còn Hà Nội thì được phép tiếp tục đóng quân ở miền
Nam, chắc ông phải thấy là ông đã thua trong cuộc chiến này?
Nguyễn
Văn Thiệu: Không hẳn, nếu chúng tôi tiếp tục được sự trợ
giúp cần thiết từ phía Mỹ, như chính phủ Mỹ đã hứa khi chúng tôi đặt bút ký hiệp
định. Ngay cả khi ký, tôi đã coi đó là một nền hòa bình tráo trở.
Nhưng chúng tôi vẫn tin rằng có thể chống lại bất kỳ
sự xâm lăng nào của Bắc Việt. Vì hai lý do: Chúng tôi có lời hứa chắc chắn bằng
văn bản của Tổng thống Nixon rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng quyết liệt, nếu Bắc Việt
vi phạm hiệp định.
.
Nguồn: “Kathy
Troia to General, 4/8/1975”, 6 lá thư TT Nixon gởi TT Thiệu từ tháng 10
đến tháng 12, 1972. Giải mật 2/1/1990
.
Thư của TT Nixon gởi
TT Thiệu, 5/1/1973
.
Thư TT Nixon gởi TT Thiệu 17 tháng 1, năm 1973
.
Spiegel: Mặc dù ông ấy không hề cho biết sẽ phản ứng bằng cách nào.
Nguyễn
Văn Thiệu: Thứ hai, chúng tôi được đảm bảo là sẽ có đủ viện
trợ quân sự và kinh tế cần thiết để chống Bắc Việt xâm lược. Nếu chính phủ Mỹ
thực lòng giữ lời hứa thì chiến tranh có thể kéo dài, nhưng miền Nam sẽ không bị
Bắc Việt thôn tính.
.
Spiegel: Về điều này thì ông và Kissinger ít nhiều đồng quan điểm. Ông ấy
viết rằng chiến lược toàn cục có thể sẽ thành công, nếu Mỹ đủ khả năng hành động
trước bất kỳ một vi phạm nào của Hà Nội và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền
Nam. Nhưng chuyện gì đã xảy ra? Kissinger quy lỗi cho vụ Watergate, vì sau đó Tổng
thống Mỹ không còn đủ uy tín. Ông có nghĩ rằng vụ Watergate thực sự chịu trách
nhiệm, khiến tất cả sụp đổ không?
Nguyễn
Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không phải là người Mỹ.
Tôi không muốn quét rác trước cửa nhà người Mỹ. Nhưng nếu người Mỹ giữ lời hứa
thì đó là sự cảnh báo tốt nhất, khiến Bắc Việt không tiếp tục xâm lăng, và chiến
tranh có thể sẽ dần chấm dứt.
.
Spiegel: Nếu Hoa Kỳ giữ lời thì theo ông, hiệp định hoàn toàn có thể
thành công?
Nguyễn
Văn Thiệu: Tôi cho là như vậy.
.
Spiegel: Như vậy về tổng thể, Hiệp định Paris không đến nỗi tồi?
Nguyễn
Văn Thiệu: Đó chắc chắn không phải là một hiệp định có lợi
cho chúng tôi. Nó tráo trở. Nhưng đó là lối thoát cuối cùng. Ông phải hiểu rằng
chúng tôi đã ký kết, vì chúng tôi không chỉ có lời hứa của chính phủ Mỹ như tôi
đã nói, mà hiệp định đó còn được mười hai quốc gia và Liên Hiệp Quốc đảm bảo.
.
Spiegel: Trong cuốn hồi ký, TS Kissinger có những bình luận rát mặt về
khá nhiều chính khách đầu đàn. Nhưng riêng ông thì bị ông ấy dành cho những lời
hạ nhục nhất. Tuy đánh giá cao “trí tuệ”, “sự can đảm”, “nền tảng văn hóa” của
ông, nhưng ông ấy vẫn chú tâm vào “thái độ vô liêm sỉ”, “xấc xược”, “tính vị kỷ
chà đạp” và “chiến thuật khủng khiếp, gần như bị ám ảnh điên cuồng” trong cách ứng
xử với người Mỹ của ông. Vì thế, cuối cùng Kissinger nhận ra “sự phẫn nộ bất lực
mà người Việt thường dùng để hành hạ những đối thủ mạnh hơn về thể lực”. Ý kiến
của ông về những khắc họa đó thế nào?
Nguyễn
Văn Thiệu: Tôi không muốn đáp lại ông ấy. Tôi không muốn
nhận xét gì về ông ấy. Ông ấy có thể đánh giá tôi, tốt hay xấu, thế nào cũng được.
Tôi muốn nói về những điều đã xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hơn.
.
Spiegel: Hay ông đã làm gì khiến ông ấy có cái cớ để viết về ông với giọng
coi thường như thế?
Nguyễn
Văn Thiệu: Có thể ông ấy đã ngạc nhiên vì gặp những người
quá thông minh và mẫn cán. Có thể cũng do cái phức cảm tự tôn của một người đàn
ông hết sức huênh hoang. Có thể ông ấy không tin nổi là người Việt đối thoại với
ông ta lại địch được một người tự coi mình là vô cùng quan trọng.
Để tôi kể thêm một câu chuyện nữa: Ở đảo Midway tôi
thấy buồn cười, vì thật chẳng bao giờ tôi có thể hình dung là những người như vậy
lại tệ đến thế. Chúng tôi, gồm ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi,
gặp nhau ở nhà một sĩ quan chỉ huy hải quân ở Midway. Ở đó có ba chiếc ghế thấp
và một chiếc ghế cao. Ông Nixon ngồi trên chiếc ghế cao.
.
Spiegel: Như trong phim Nhà độc tài vĩ đại của Chaplin? Hitler cũng ngồi
trên một chiếc ghế cao để có thể nhìn xuống Mussolini, ngồi trên một chiếc ghế
thấp hơn.
Nguyễn
Văn Thiệu: Nhưng tôi vào góc phòng lấy một chiếc ghế cao
khác, nên tôi ngồi ngang tầm với Nixon. Sau buổi gặp đó ở Midway, tôi nghe bạn
bè người Mỹ kể lại rằng Kissinger đã rất bất ngờ vì Tổng thống Thiệu là một người
như vốn dĩ vẫn vậy.
.
Spiegel: Trong hồi ký, Kissinger phàn nàn là đã bị cá nhân ông đối xử rất tệ; ông
bỏ hẹn để đi chơi trượt nước. Nixon còn quá lời hơn. Theo Kissinger thì Nixon
đã gọi ông là “đồ chó đẻ” (son of a bitch)(1) mà Nixon sẽ dạy cho biết “thế nào
là tàn bạo”.
Nguyễn
Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không thể cho phép mình
đáp lại những lời khiếm nhã, thô tục đó của Nixon, vì tôi xuất thân từ một gia
đình có nề nếp.
Nếu tôi không tiếp TS Kissinger và Đại sứ Bunker thì
đơn giản chỉ vì chúng tôi chưa chuẩn bị xong để tiếp tục đàm thoại. Họ đã cần đến
4 năm, vậy vì sao lại bắt tôi trả lời ngay lập tức trong vòng một tiếng đồng hồ?
Có lẽ họ sẽ hài lòng, nếu chúng tôi chỉ biết vâng dạ. Nhưng tôi không phải là một
người chỉ biết vâng dạ, và nhân dân Nam Việt Nam không phải là một dân tộc chỉ
biết vâng dạ, và Quốc hội của chúng tôi không phải là một Quốc hội chỉ biết vâng
dạ. Mà tôi phải hỏi ý kiến Quốc hội.
.
Spiegel: TS Kissinger viết rằng thái độ của ông với ông ấy chủ yếu xuất
phát từ “lòng oán hận độc địa”.
Nguyễn
Văn Thiệu: Không. Tôi chỉ bảo vệ lợi ích của đất nước
tôi. Dĩ nhiên là đã có những cuộc tranh luận nảy lửa, nhưng thái độ của tôi xuất
phát từ tinh thần yêu nước của tôi.
.
Spiegel: Kissinger viết rằng ông ấy hoàn toàn “thông cảm với hoàn cảnh bất
khả kháng” của ông. Ông có thấy dấu hiệu nào của sự thông cảm đó không?
Nguyễn
Văn Thiệu: Không, tôi không thấy. Tôi chỉ thấy duy nhất một
điều, đó là áp lực từ phía chính phủ Mỹ.
.
Spiegel: Kissinger viết rằng ông không bao giờ tham gia vào các buổi thảo
luận về chủ trương chung. Ông ấy bảo rằng ông chiến đấu “theo kiểu Việt Nam:
gián tiếp, đi đường vòng và dùng những phương pháp khiến người ta mệt mỏi hơn
là làm sáng tỏ vấn đề”, rằng ông “chê bai mọi thứ, nhưng không bao giờ nói đúng
vào trọng tâm câu chuyện”.
Nguyễn
Văn Thiệu: Hãy thử đặt mình vào tình thế của tôi: Ngay từ
đầu tôi đã chấp nhận để chính phủ Mỹ họp kín với Hà Nội. Kissinger bảo là đã
thường xuyên thông báo cho tôi. Vâng, tôi được thông báo thật – nhưng chỉ về những
gì mà ông ấy muốn thông báo. Nhưng tôi đã tin tưởng rằng đồng minh của mình sẽ
không bao giờ lừa mình, không bao giờ qua mặt tôi để đàm phán và bí mật bán đứng
đất nước tôi.
Các ông có hình dung được không: vỏn vẹn bốn ngày
trước khi lên đường đến Hà Nội vào tháng Mười 1972, ông ấy mới trao cho tôi bản
dự thảo mà sau này sẽ được chuyển thành văn bản hiệp định ở Paris, bằng tiếng
Anh? Chúng tôi phải làm việc với bản dự thảo tiếng Anh này, từng điểm một.
Và bản dự thảo đó không phải do Nam Việt Nam cùng
Hoa Kỳ soạn ra, mà do Hà Nội cùng Hoa Kỳ soạn ra. Các ông có thể tưởng tượng được
điều đó không? Lẽ ra, trước hết phía Mỹ nên cùng chúng tôi thống nhất quan điểm
về những điều kiện đặt ra cho hiệp định, và sau đó, nếu Bắc Việt có đề nghị gì
khác thì Kissinger phải trở lại hội ý với chúng tôi. Nhưng ông ấy không hề làm
như vậy.
Thay vào đó, ông ấy cùng Bắc Việt soạn ra các thỏa
thuận rồi trình ra cho tôi bằng tiếng Anh. Các ông có thể hiểu cảm giác của tôi
khi cầm văn bản của hiệp định hòa bình sẽ quyết định số phận của dân tộc tôi mà
thậm chí không buồn được viết bằng ngôn ngữ của chúng tôi không?
.
Spiegel: Nhưng cuối cùng ông cũng có bản tiếng Việt?
Nguyễn
Văn Thiệu: Chúng tôi cương quyết đòi bản tiếng Việt, đòi
bằng được. Mãi đến phút cuối cùng ông ấy mới miễn cưỡng chấp nhận. Sau đó chúng
tôi phát hiện ra rất nhiều cái bẫy. Tôi hỏi Đại sứ Bunker và Kissinger, ai đã
soạn bản tiếng Việt. Họ bảo: một người Mỹ rất có năng lực thuộc International
Linguistics College tại Hoa Kỳ cùng với phía Hà Nội. Nhưng làm sao một người Mỹ
có thể hiểu và viết tiếng Việt thành thạo hơn người Việt. Và làm sao một người
Mỹ có thể ứng đối bằng tiếng Việt với cộng sản Bắc Việt giỏi hơn chính chúng
tôi? Đồng minh mà như thế thì có chân thành và trung thực không?
.
Spiegel: Một số quan chức cao cấp ở Hoa Kỳ từng nhận định rằng thực ra
Kissinger chỉ cố gắng đạt được một khoảng thời gian khả dĩ giữa việc Mỹ rút
quân và sự sụp đổ tất yếu của Nam Việt Nam. Trong cuốn sách của mình, Kissinger
bác bỏ quan niệm đó. Ý kiến của ông thì thế nào?
Nguyễn
Văn Thiệu: Bất kể người Mỹ nói gì, tôi tin rằng mục đích
cuối cùng của chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam.
.
Spiegel: Nhưng Kissinger đưa ra cả một loạt điểm để chứng minh rằng không
phải như vậy.
Nguyễn
Văn Thiệu: Chính phủ Mỹ tìm cách ép chúng tôi phải đồng
ý. Để họ có thể hãnh diện là đã thoát ra được bằng một “thỏa thuận danh dự”. Để
họ có thề tuyên bố ở Hoa Kỳ rằng: “Chúng ta rút quân về nước, chúng ta đảm bảo
việc phóng thích tù binh Mỹ.” Và ở ngoài nước Mỹ thì họ nói rằng: “Chúng tôi đã
đạt được hòa bình cho Nam Việt Nam. Bây giờ mọi chuyện do người dân Nam Việt
Nam định đoạt. Nếu chính phủ liên hiệp biến thành một chính phủ do cộng sản chi
phối thì đó là vấn đề của họ. Chúng tôi đã đạt được một giải pháp danh dự.”
.
Spiegel: Kissinger viết như sau: “Nguyên tắc mà chúng tôi tuân thủ trong
các cuộc đàm phán là: Hoa Kỳ không phản bội đồng minh.”
Nguyễn
Văn Thiệu: Ông cứ nhìn miền Nam Việt Nam, Campuchia và
toàn bộ Đông Dương hiện nay thì biết. Khi tranh luận với các đại diện chính phủ
Mỹ về hiệp định hòa bình, chúng tôi thường có ấn tượng rằng họ không chỉ đóng
vai, mà thực tế là đã biện hộ cho ác quỷ.
.
Spiegel: Có bao giờ ông thấy một chút gì như là biết ơn đối với những điều
mà người Mỹ đã làm để giúp nước ông không? Trong cuốn sách của mình, Kissinger
viết rằng: “Biết công nhận những cống hiến của người khác không phải là đặc
tính của người Việt.”
Nguyễn Văn Thiệu (cười): Về những điều mà Kissinger
viết trong cuốn sách của ông ấy thì tôi cho rằng chỉ một người có đầu óc lộn bậy,
chỉ một người có tính khí tởm lợm mới nghĩ ra được những thứ như vậy. Trong cuốn
sách đó ông ấy còn tỏ ý sợ người Việt sẽ đem những người Mỹ còn sót lại ra trả
thù, sau khi Washington bỏ rơi chúng tôi. Không bao giờ chúng tôi làm những điều
như thế, không bây giờ và không bao giờ.
.
Spiegel: Cá nhân ông có cảm thấy một chút hàm ơn nào với họ không?
Nguyễn
Văn Thiệu: Hết sức thực lòng: Nếu chính phủ Mỹ không phản
bội, không đâm dao sau lưng chúng tôi thì nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn họ.
Có lần, sau khi chúng tôi tranh luận rất kịch liệt về một văn bản trong hiệp định,
một số thành viên trong chính phủ của tôi bảo rằng, nếu Kissinger lập công với
miền Nam như ông ta đã lập công với miền Bắc thì may mắn biết bao. Tôi bảo họ:
nếu ông ấy thương lượng được một nền hòa bình thực sự với Hà Nội thì miền Nam sẽ
dựng tượng ông ấy, như MacAthur ở Nam Hàn. Nhưng đáng tiếc là đã không như vậy.
Nhìn vào những hậu quả của nền hòa bình ấy: trại tập trung cải tạo, nạn đói, nhục
hình tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân bỏ mạng trên biển, và một cuộc diệt chủng
tàn bạo hơn, hệ thống hơn và hoạch định hơn cả ở Campuchia, tôi nghĩ tốt nhất
là người Mỹ nên tự đánh giá những điều mà ông Nixon và ông Kissinger đã gây ra
cho miền Nam Việt Nam. Kissinger không có gì để tự hào về nền hòa bình mà ông ấy
đã đạt được. Đó là hòa bình của nấm mồ.
.
Spiegel: Xin cảm ơn ông Thiệu đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
.
“Chúng tôi sẽ không
bao giờ quên các bạn”: cuộc rút quân đầu tiên của quân đội Mỹ khỏi miền
Nam Việt Nam năm 1969, chỉ là một cử chỉ tượng trưng. Nguồn: Der Spiegel Số 50,
1979, trang 208
.
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài
từ DCVOnline.net”
Nguồn: Bản Đức ngữ, Angels, John K. và Lohfeldt, Heinz P., “Die
Amerikaner haben uns verraten”, Nguyen van Thieu. Der Spiegel No. 50 /
10.12.1979, pages 197-213.
DCVOnline minh hoạ và phụ chú
DCVOnline:
(1) Tổng thống Mỹ Richard Nixon cũng đã gọi Thủ tướng Canada Pierre E. Trudeau là “lỗ đít” (“an asshole”), “thằng chó đẻ” (son of a bitch), “đồ trí thức tự cao” (pompous egg-head); trích “Nixon tapes include testy Trudeau chat”, Lee-Anne Goodman, The Canadian Press, Published on Mon Dec 08 2008.
(1) Tổng thống Mỹ Richard Nixon cũng đã gọi Thủ tướng Canada Pierre E. Trudeau là “lỗ đít” (“an asshole”), “thằng chó đẻ” (son of a bitch), “đồ trí thức tự cao” (pompous egg-head); trích “Nixon tapes include testy Trudeau chat”, Lee-Anne Goodman, The Canadian Press, Published on Mon Dec 08 2008.
No comments:
Post a Comment