David Brown - Asia
Sentinel
Người dịch: Trần Văn Minh
Posted by admin on October 25th, 2014
Trong những vấn đề nan giải toàn cầu, tham vọng bá quyền
của Trung Quốc ở Biển Đông nên được đưa lên hàng đầu, cùng với thay đổi khí
hậu, Thánh chiến và chống vi-rút Ebola. Vấn đề dường như không thể kiểm soát,
vì thế giải quyết vấn nạn này đã trở thành sự thử nghiệm quan trọng, liệu trật
tự quốc tế có thích hợp với một ‘Trung Quốc đang trỗi dậy’ hay không.
Bất kể tính thận trọng của Tổng thống Barack Obama, biết
rằng tham gia vào một cuộc chiến ở nước ngoài dễ hơn là giành chiến thắng, sự
đe dọa của các chiến thuật mà Bắc Kinh đặt ra trước lợi ích sống còn của Hoa
Kỳ, đang lôi kéo Washington vào một cuộc đối đầu khó tránh khỏi với Trung Quốc.
Cho tới một vài năm trước, có thể thấy rằng vấn đề Biển Đông là một cuộc tranh
cãi giữa các nước ven biển về nguồn cá và tài nguyên dưới đáy biển, bị làm trầm
trọng thêm bởi tính dửng dưng của Trung Quốc. Bây giờ đã rõ ràng là Trung Quốc
không muốn đàm phán chủ quyền lãnh thổ với các nước láng giềng theo Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), mà chỉ quan tâm tới những điều có lợi cho
họ. Washington đã phải gác lại giấc mơ về quan hệ đối tác toàn cầu với siêu
cường mới trỗi dậy của châu Á, trong khi cân nhắc sự kiểm soát các tuyến đường
biển quan trọng của Trung Quốc trong tương lai. Theo Bill Hayton thì Biển Đông
“là vị trí đầu tiên trong tham vọng của Trung Quốc đưa tới việc đối mặt với
quyết tâm chiến lược của Mỹ”.
Đây là một cuộc đối đầu mà chúng ta cần phải hiểu, và
Hayton, phóng viên BBC đã từng có thời gian ở Myanmar và Việt Nam, đã cung cấp
cốt truyện. Cuốn Biển Đông, với phụ đề Cuộc đấu tranh quyền lực ở
châu Á mà ông nghiên cứu kỹ lưỡng và viết thật chải chuốt, đã được xuất bản
tại Anh vào cuối tháng 9 và sẽ được Nhà xuất bản Yale Press xuất bản tại Mỹ vào
ngày 28 tháng 10. (Cuốn sách được bán trên Amazon với giá 28 USD).
Cuốn sách dày 320 trang của Hayton chắc chắn sẽ được so
sánh với một cuốn sách gần đây của Robert Kaplan có cùng chủ đề, Vạc dầu
châu Á: Biển Đông và sự kết thúc của Thái Bình Dương ổn định. Đó là hai
cuốn sách khác nhau. Kaplan tung ra sự khái quát nhẹ nhàng về bản sắc, lợi ích
quốc gia và nỗi ám ảnh có tham vọng của các nhà lãnh đạo châu Á. Kaplan cho
biết, tất cả là sự cân bằng quyền lực, một cuộc cạnh tranh diễn ra “trong cảnh
quan mới và có phần hoang vu này của thế kỷ 21″. Đông Nam Á trong mắt ông là
một nơi mà Trung Quốc có sứ mệnh đưa những nước chư hầu ngày xưa trở lại quỹ
đạo thích hợp của họ và là nơi, nếu Washington thực tế trong sự phân tích, thì
phải vui vẻ nhường lại vị thế ưu tiên cho Bắc Kinh.
Ngược lại, Hayton thì giải thích. Các chương mở đầu của
ông đã dễ dàng dẫn độc giả đi qua năm ngàn năm trên Biển Đông, rằng đó là một
khu vực chung bị chi phối bởi những nhà thám hiểm tiền-Mã Lai. Sau đó, các đế
quốc thương mại trỗi dậy và suy tàn: Phù Nam, Champa, Majahapit và Malacca. Vào
khoảng năm 1400, lần đầu tiên và duy nhất trước thời đại hiện nay, Trung Quốc
trong một thời gian ngắn đã trở thành một cường quốc biển, gửi các đội tàu lớn
tới Ấn Độ và Đông Phi trước khi chuyển sự chú ý của mình vào nội địa. Người Âu
Châu trong việc tìm kiếm các loại gia vị, đồ gốm và lụa, đến vào những năm
1500. Tây Ban Nha thiết lập quyền thống trị trên quần đảo Philippines; ba thế
kỷ sau đó, Pháp ở Đông Dương và Anh tại các bang Malay đã tạo ra các thuộc địa
của họ và thậm chí bắt buộc Trung Quốc phải quy phục trước chính sách ngoại
giao pháo hạm.
Những người Âu Châu, với ý định phân định ranh giới và
thiết lập độc quyền lãnh thổ, đã vô tình đặt nền móng cho ý thức tinh thần quốc
gia mãnh liệt, vào giữa thế kỷ 20, trở thành cựu thuộc địa và nhượng địa của
họ. Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Trung Hoa (cả chính phủ Đài Loan và Bắc
Kinh) tất cả tuyên bố những mảng lớn và chồng chéo trên một vùng biển mở rộng
mà trong quá khứ đã nối kết họ với nhau thay vì phân chia. Tất cả đã hối hả
dựng quốc kỳ của họ trên các rạn san hô, đá và những đảo nhỏ (những ‘cụm’ tập
hợp) rải rác trên vùng biển rộng lớn.
Tấm thảm đắt giá mà Hayton dệt tự nó có sức hấp dẫn,
nhưng tầm quan trọng đáng chú ý là sợi chỉ ông cẩn thận kéo ra: Đòi hỏi chủ
quyền dựa trên chứng cứ lịch sử của Trung Quốc ở vùng biển phía nam Hồng Kông
và đảo Hải Nam chủ yếu là rác vụn. Bằng chứng của Trung Quốc đơn giản là không
đứng vững trước biên niên sử của các chúa Nguyễn ở Việt Nam, vào khoảng năm
1750, đã phái những cuộc thám hiểm hàng năm đến cả hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Người Việt Nam chủ yếu khai thác các tàu đắm, chắc chắn như thế, nhưng họ đã để lại những dấu vết và lưu giữ hồ sơ cẩn thận.
Trớ trêu thay, người Việt Nam đã ngưng dựa vào những bằng
chứng lịch sử của riêng mình. Thay vào đó, họ dựa vào các quy định phân chia
vùng biển được hệ thống hóa trong Công ước Quốc tế về Luật biển, có hiệu lực từ
năm 1994. Philippines và Malaysia cũng như vậy. Luật pháp quốc tế là nơi trú ẩn
của các quốc gia nhỏ và yếu hơn. Đối với các quốc gia mạnh có ý đồ gỡ bỏ những
nỗi nhục trong quá khứ, thì luật pháp quốc tế thường là sự phiền toái bất tiện.
Nhà cầm quyền Bắc Kinh có lẽ biết luận điểm pháp lý của họ yếu kém; họ có thể
suy diễn rằng Trung Quốc lẽ ra đã thống trị các vùng biển lân cận nếu không bị
Tây phương và Nhật Bản áp bức. Đối với một thường dân Trung Quốc vấn đề đó thật
giản dị. Các giáo viên và truyền thông đại chúng đã thuyết phục ông ta rằng chủ
quyền của Bắc Kinh trên các vùng biển phía Nam và các quần đảo là “không thay
đổi” và “không thể tranh cãi.”
Các nhà phân tích – trong số đó gồm có Hayton và tác giả
bài viết này – khó có thể giải thích vì sao Bắc Kinh quá ngạo mạn, làm sứt mẻ
sự kính trọng [của thế giới dành cho họ] để cho đến gần đây họ đã phải cố gắng
hết sức để lấy lại. Hayton thử đưa ra quan điểm cho rằng giới lãnh đạo hải
quân, các công ty dầu mỏ và chính quyền địa phương đã mạnh mẽ theo đuổi chính
sách đối ngoại tự lập, kéo theo những nhà lãnh đạo cấp cao không muốn lộ vẻ yếu
đuối. Lập luận trên không đứng vững trong thời đại Tập Cận Bình; trong những
năm gần đây chiến thuật của Trung Quốc đã được phối hợp nhịp nhàng một cách đáng
chú ý.
Các nhà phân tích khác đổ lỗi cho cơn khát dầu hỏa và khí
đốt dữ dội của siêu cường đang lên. Không nghi ngờ rằng sự tăng trưởng trong
tương lai của Trung Quốc phụ thuộc vào nguồn cung cấp phong phú của cả hai.
Nhưng chắc phải có nghi ngờ rằng Biển Đông là “Vịnh Ba Tư thứ hai” thường được
đề cập trong phương tiện truyền thông Trung Quốc. Hơn nữa, ngang bằng với tỷ
giá hối đoái, Trung Quốc đã không có khó khăn tìm nguồn cung ứng dầu khí bên
ngoài khu vực, cũng như không nước nào có lợi ích để can thiệp vào mối thương
mại đó.
Những quan sát viên phương Tây không cố gắng tìm hiểu vấn
đề thường có xu hướng coi những yêu sách và tham vọng của Trung Quốc không kém
giá trị hơn tất cả những nước khác. Kaplan đi xa hơn, xem luật pháp quốc tế
thực ra không thích đáng trong tranh chấp Biển Đông. Tuy nhiên, tầm mức to lớn
của yêu sách lãnh thổ và chiến thuật được sử dụng trong việc theo đuổi mục tiêu
của Trung Quốc, là rất quan trọng đối Mỹ và các quốc gia có lợi ích lớn trong
việc duy trì một trật tự thế giới hòa bình, dựa trên luật pháp và tự do mậu
dịch. Các nhà phân tích này cho rằng một “Trung Quốc đang trỗi dậy” sẽ chỉ chơi
theo luật khi phù hợp với lợi ích của họ. Điều đó có nghĩa rằng, Hayton kết
luận, khu vực rộng 3.5 triệu kilomet vuông này — vùng ‘biển kín’ lớn nhất thế
giới — đã trở thành nơi mà bản chất khác biệt giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ có ngày
xung đột.”
Mỗi năm trôi qua, sự căng thẳng tăng cao hơn. Một động
lực không ổn định khó tránh khỏi việc sẽ kéo Mỹ và đồng minh châu Á chủ yếu là
Nhật vào, để hỗ trợ Việt Nam và Philippines. Trung Quốc không cho thấy có dấu
hiệu dịu xuống. Chưa nhìn thấy một kết cuộc hài hòa.
Tái bút: Trớ trêu thay, Bill
Hayton không được chào đón tại Việt Nam. Ông là thông tín viên thường trú của
BBC tại Hà Nội trong năm 2007-2008. Rõ ràng là các bài viết của ông vào thời
điểm đó đã gây khó chịu cho nhà cầm quyền. Khi Hayton nộp đơn xin visa tham dự
một cuộc hội thảo tháng 11 năm 2012 về các vấn đề Biển Đông do Học viện Ngoại
giao Việt Nam tổ chức, ông đã bị từ chối. Vài tháng sau, Hayton nộp đơn một lần
nữa, đặc biệt với yêu cầu phỏng vấn các quan chức Việt Nam cho cuốn sách sắp
tới của mình. Một lần nữa ông lại bị từ chối. Kết quả là phần trong cuốn sách
của Hayton nói về Việt Nam và Biển Đông tương đối “mỏng” — thiếu những chi tiết
để thu hút độc giả mà cuộc nói chuyện với các chuyên gia Việt Nam có thể sẽ
cung cấp. Đó là một điều đáng tiếc – và một câu chuyện khác (cho đến nay) có
kết cuộc chẳng mấy hay ho gì!
David Brown là một nhà ngoại giao Mỹ đã về hưu, là người
viết về các chủ đề Đông Nam Á với sự quan tâm đặc biệt đến Việt Nam đương đại.
Có thể liên lạc với ông tại địa chỉ nworbd@gmail.com.
—–
Ghi chú: Bản tiếng Anh đã
được đăng trên trang Asia Sentinel: Book Review: The South China Sea: The Struggle for Power in
Asia. Một bản khác, tác giả viết riêng cho các độc giả Việt Nam, có phần
khác với bản này.
No comments:
Post a Comment