DANH
HIỆU VÀ DANH XƯNG KHÁC NHAU THẾ NÀO?
DANH
HIỆU VÀ DANH XƯNG KHÁC NHAU THẾ NÀO?
- Gsts Nguyễn Tuấn
Tâm lí
vọng ngoại và “Bụt nhà không thiêng”
Chuyện
thời sự là anh Hùng Cao được các giới chức lễ tân Việt Nam đề danh xưng là
‘ông’, trong khi đó sếp của anh ấy Pete Hegseth là ‘ngài’. Sự việc làm tôi liên
tưởng đến câu nói ‘bụt nhà không thiêng’ như là một căn bệnh tâm lí của chúng
ta.
Chúng
ta cần phải phân biệt những khái niệm như danh hiệu danh xưng, chức danh, chức
vụ, và tâm lí vọng ngoại.
■ Danh hiệu và danh
xưng
Cần
phân biệt danh hiệu (honorific) và danh xưng (title).
Ví dụ danh
hiệu là His Excellency, The Honorable, The Right Honorable, Her Majesty, His
Majesty, Sir (ngài), v.v.
Còn danh
xưng là Mister, Miss, Doctor, ông, bà, anh, chị, v.v.
Danh
hiệu chánh thức của anh Hùng Cao là 'The Honorable’ [1]. Chính xác là "The
Honorable Hung Cao". Rất trang trọng.
Danh
hiệu của Bộ trưởng Chiến tranh vụ cũng như Hùng Cao thôi: "The Honorable
Pete Hegseth" [2]. Đó là danh hiệu rất nghiêm trang.
Vậy
mà khi về Việt Nam thì anh chàng người Việt biến thành ‘ông’ (danh xưng), còn
anh chàng người Mĩ thành danh hiệu ‘ngài’!
Đó
là một sự lẫn lộn giữa danh xưng và danh hiệu.
■ Chức vụ
Phải
công nhận rằng danh hiệu 'ngài' nó oách hơn danh xưng 'ông'.
Có
một sự khác biệt nữa về chức vụ. Chức vụ của anh chàng người Mĩ thì được ghi
đàng hoàng. Anh ấy là Bộ trưởng Bộ chiến tranh vụ.
Chức
vụ của anh Hùng Cao là Under-Secretary, tương đương với Thứ trưởng Hải quân. Có
lẽ anh ấy là người gốc Việt có chức vụ cao nhứt trong Chánh phủ Trump hiện nay.
Ấy vậy mà các viên chức lễ tân người Việt làm ngơ chức vụ của anh ấy.
Trong
quân đội, anh chàng bộ trưởng người Mĩ là thiếu tá, còn anh đồng hương chúng ta
mang hàm đại tá.
Cần
nói thêm rằng, cứ 1200 người được tuyển vào Học viện Hải quân Annapolis (danh
giá nhứt thế giới) thì chỉ có 1000 người tốt nghiệp. Trong số 100 người tốt
nghiệp Annapolis, chỉ có 1 người đạt hàm đại tá hải quân.
Nói
như vậy để thấy Hùng Cao thuộc vào hàng elite, không phải tầm thường.
■ Tâm
lí vọng ngoại?
Sự
khác biệt trên ('ông' vs 'ngài', và ghi chức vụ và không ghi chức vụ) là nhỏ
thôi. Nhưng cái khác biệt đó có thể phản ảnh sâu xa cái tâm lí vọng ngoại.
Cái
tâm lí đó được người Việt tóm tắt bằng một câu chỉ 4 chữ: 'Bụt nhà không
thiêng'.
Không
phải chỉ người mình mới có câu đó đâu; người phương Tây cũng có câu "No
one is a prophet in their own land" (Không ai là tiên tri ở quê hương
mình), mà tôi nghĩ có ý nghĩa tương tự.
Từ
đó, suy ra và có thể giải thích tại sao người tài giỏi và có giá trị ở gần mình
(cùng ngôn ngữ, trong gia đình, chòm xóm, quê hương) thường không được trân trọng,
nhưng ra ngoài lại được ca ngợi.
Tôi
chắc rằng nhiều người trong chúng ta có thể thấy nhiều trường hợp trên. Người
Việt tài giỏi ở trong nước không được trọng vọng, nhưng ra ngoài thì lại được
đãi ngộ tốt.
Ở
Úc cũng vậy. Nhớ ngày xưa thầy cũ tôi nói với mấy đứa nghiên cứu sinh đại khái
là "Tụi bây nếu muốn tiến thân thì phải đi Mĩ hay Âu châu rồi hãy quay về.
Còn tụi bây mà ở đây thì sẽ lâu lắm mới tiến được vì 'No one is a prophet in
their own land'." Nghiệm lại, thấy thầy tôi nói đúng quá.
Đó
là tâm lí vọng ngoại. Đó là một hiện tượng tâm lí xã hội phổ biến ở người Á
châu, đặc biệt là người Hoa, mà theo đó, chúng ta (nói chung) có xu hướng coi
trọng, tin tưởng và ưu ái người ngoại quốc, đặc biệt là phương Tây.
Nhưng
tôi có cảm giác cái tâm lí vọng ngoại ở người Việt mình nặng nề hơn ở Úc.
Trong
một cuốn sách nổi tiếng, tác giả Nguyễn Gia Kiểng viết về cái tâm lí vọng ngoại
ở người Việt mình như sau:
"Lúc
còn ở Sài Gòn, năm 1981, một hôm tôi gặp một anh chuyên gia Việt kiều mà tôi
quen biết từ lâu. Anh ta du học tại Pháp, học rất kém, lận đận mãi rồi bỏ qua
Canada. Tôi biết quá rõ anh ta để có thể bảo đảm là anh ta không có khả năng
nào đáng kể. Nhưng anh ta có xe đưa đón trọng vọng và được rất nhiều quan chức
cao cấp tham khảo. Trong khi đó những kỹ sư giỏi gấp nhiều lần anh ta, tốt nghiệp
từ Mỹ, từ Pháp, từ Úc, lừ Canada không thiếu gì, nhưng được xếp cho ngồi đánh cờ
trong các cơ quan. Họ chỉ được tuyển dụng để nhà nước kiểm soát chứ không được
sử dụng. Không ai cần biết ý kiến của họ. Óc khinh thường người Việt Nam mạnh đến
nỗi ngay cả những người tốt nghiệp ở nước ngoài mà phần nào đã được Việt Nam
hóa cũng bị coi thường.
[...]
Sự
khinh thường người Việt không phải chỉ có nơi những người cầm quyền mà còn có
trong quần chúng Việt Nam. Mới đây cháu tôi tốt nghiệp ở Hòa Lan xin đi làm cho
một hãng Hòa Lan có chi nhánh ở Việt Nam và bị từ chối. Ban giám đốc giải thích
rằng họ không tuyền dụng cấp chỉ huy người Việt cho chi nhánh tại Việt Nam vì
lý do một người Hòa Lan da trắng mắt xanh dễ điều khiển người Việt hơn một người
Hòa Lan gốc Việt. Người Hòa Lan học bài nhanh thật!"
■ Nhiều khi tôi tự hỏi
tại sao người mình lại vọng ngoại dữ vậy?
Vọng
ngoại ở người mình, theo tôi thấy, là một ... căn bệnh.
Vọng
ngoại ở người mình không phải là yêu thích cái đẹp, cái mới, hay cái chất lượng.
Nó là sự mù quáng tin tưởng rằng bất cứ thứ gì mang nhãn mác nước ngoài đều vượt
trội hơn so với ở trong nước, dù thực tế có khi ngược lại.
Một
bác sĩ phẫu thuật giỏi nhứt của Việt Nam có thể bị xem là thấp hơn một đồng
nghiệp người Mĩ. Có lần tôi nghe câu hỏi của người nhà bệnh nhân, “Sao không mời
bác sĩ Singapore?”, mà nhói bụng. Cái tên “ngoại” như một lá bùa, biến mọi thứ
thành vàng, còn cái “nội” dù tài năng đến đâu cũng chỉ là đồng đen!
Hồi
còn trẻ, thú thiệt, tôi cũng vọng ngoại. Nhìn thấy họ sang hơn mình, và giả định
rằng họ giỏi hơn mình, thông minh hơn mình. Từ giả định đó, tôi tự coi mình là
kém cỏi và nhỏ bé, cái gì họ nói cũng có vẻ hay ho.
Nhưng
đến khi tôi có dịp làm chung với họ, lăn lộn trong thế giới khoa bảng và khoa học,
tôi mới nhận ra một sự thật hiển nhiên: họ cũng như mình thôi. Có nghĩa là
trong họ cũng có người tài giỏi, nhưng cũng đầy những người kém cỏi. Kém cỏi
hơn mình. Họ cũng 'trần ai', thậm chí 'cà chớn' lắm.
Từ
trải nghiệm thực tế đó, tôi bắt đầu tự chữa căn bệnh tự ti và vọng ngoại cho
mình.
Tôi
nghĩ cái bệnh vọng ngoại của người mình có lẽ do lịch sử để lại. Một trăm năm bị
Pháp đô hộ và gần 1000 năm bị người Tàu đô hộ, người Việt chúng được dạy rằng
văn minh là tiếng Pháp, là kiến trúc châu Âu, là rượu vang, là xe hơi nhập khẩu,
là văn minh Trung Hoa.
Dù
đã độc lập lâu rồi, nhưng tâm lí tự ti này vẫn âm thầm chảy trong máu chúng ta.
Chúng ta học tiếng Anh từ lớp một, nhưng hiếm ai tự hào nói tiếng Việt trôi chảy
trước người ngoại quốc. Chúng ta khoe con du học Mĩ, Anh, Úc, nhưng ngại kể con
học trường trong nước. Cái “ngoại” trở thành thước đo của thành công, của đẳng
cấp, của sự văn minh.
Nhưng
nói đi thì cũng nói lại. Hãy thử đặt mình vào vị trí của một bà nội trợ đi chợ,
một kĩ sư chọn phần mềm, hay một phụ huynh chọn đại học cho con. Khi họ chọn
hàng ngoại, đó không phải lúc nào cũng là mù quáng. Đôi khi, đó là sự sống còn,
là bản năng tự vệ trước một hệ thống nội địa từng nhiều lần làm họ thất vọng.
Hãy
nói thẳng: có những sản phẩm trong nước thực sự kém chất lượng. Không phải tất
cả, nhưng đủ nhiều để tạo nên một vết sẹo niềm tin.
Công
chúng không cần đọc báo khoa học; họ chỉ cần nghe tin tức tối: “Lại một vụ gian
lận khoa học”, “Lại một dự án ngàn tỉ thất bại”. Và họ rút ra kết luận thực tế
nếu ngay cả người làm khoa học trong nước còn như vậy, thì làm sao họ tin vào sản
phẩm của họ? Đó không phải vọng ngoại, mà là lí trí.
■ Xây
dựng niềm tin
Nhưng
chúng ta có thể chữa trị căn bệnh vọng ngoại, không phải hô hào “mua hàng Việt”
và không cần ép buộc; chỉ cần xây dựng lại niềm tin.
Hãy
nâng cao phẩm chất sản phẩm và đừng quảng cáo dối trá. Một đôi giày đóng ở Việt
Nam, không cần gắn mác "Made in USA", vẫn có thể bán chạy và chiếm
lòng tin của người dùng nếu nó bền, đẹp và giá hợp lý. Không cần phải nói xe
tôi sản xuất “ngang xe Đức”, chỉ cần pin không cháy, dịch vụ hậu mãi tốt hơn
Tesla là người tiêu dùng sẽ tự động quay về, như cách người Hàn từng quay về với
Hyundai sau khi hãng này đầu tư thật vào R&D.
Tiếp
theo là khoa học. Hãy ưu tiến nghiên cứu phục vụ con người, không phục vụ chỉ
tiêu. Một nhà khoa học không cần 50 bài báo ISI mỗi năm; anh ta chỉ cần một
phát minh cứu được mạng người, một công nghệ giúp nông dân tăng năng suất, một
bài báo trung thực được trích dẫn toàn cầu.
Hãy
công khai dữ liệu, để cộng đồng kiểm chứng. Khi một viện nghiên cứu bị phát hiện
gian lận, hãy cắt ngân sách vĩnh viễn, không phải “rút kinh nghiệm”. Chỉ khi
khoa học Việt sạch, thì công nghệ Việt mới được tin.
Và
cuối cùng, Nhà nước và xã hội phải làm gương. Hãy ưu đãi doanh nghiệp làm thật.
Hãy công khai mọi dự án ngàn tỉ, để dân giám sát. Hãy dạy trẻ em tự hào vì năng
lực, không phải vì mác ngoại. Hãy để người nổi tiếng dùng hàng Việt vì nó tốt,
không phải vì hợp đồng quảng cáo.
Khi
tất cả cùng thay đổi, niềm tin sẽ trở lại, không phải bằng lời nói, mà bằng
hành động. Và lúc đó, tôi nghĩ vọng ngoại sẽ tự biến mất, không phải vì chúng
ta ghét nước ngoài, mà vì chúng ta đã đủ tốt để không cần nước ngoài làm lá chắn.
Vì
cuối cùng, niềm tin không phải là tình cảm. Nó là kết quả của chất lượng. Và
khi chất lượng Việt Nam đứng đầu, thì người Việt sẽ tự hào đứng đầu, không cần
ai phải nhắc.
Quay
lại trường hợp Hùng Cao: để điều trị căn bệnh vọng ngoại, chúng ta hãy gọi anh
Hùng Cao bằng tất cả sự trân trọng xứng đáng, không phải "ông" khiêm
nhường, mà là "ngài" với niềm tự hào dân tộc.
Vì
anh ấy chính là minh chứng sống động rằng tài năng Việt có thể chinh phục cả thế
giới.
Và,
chỉ khi trân trọng người nhà, chúng ta mới thực sự xây dựng được niềm tin vững
vàng đối với người nước ngoài. Mình coi thường người mình thì ai trọng mình?
Bạn
đồng ý với quan điểm trên? Xin cho ý kiến.
[1]
https://www.navy.mil/.../under-secretary-of-the-navy-hung...
[2]
https://www.war.gov/.../Article/4040890/hon-pete-hegseth
Nguồn
https://www.facebook.com/share/p/1CiQLZB29Y/?mibextid=wwXIfr
HÌNH
:
https://www.facebook.com/photo?fbid=2940539296334584&set=a.286503445071529
No comments:
Post a Comment