06/07/2024
https://www.voatiengviet.com/a/tuong-nho-hoang-ngoc-tue/7687697.html
Anh Hoàng
Ngọc Tuệ là một người tốt. Từ khi quen biết nhau, trong 60 năm, tôi chưa nghe
anh nói một lời nào xấu về những người không có mặt. Chưa bao giờ thấy anh tỏ
ra nóng nảy giận dữ - cùng lắm cũng chỉ nhướng mắt lên hỏi một câu. Cũng không
thấy anh có ý kiến làm hại ai cả. Nếu những người chung quanh toan tính một điều
gì bí mật, thường anh và tôi không được tham dự. Có lần Đỗ Ngọc Yến với tôi nói
với nhau rằng, “Ông Tuệ là con người làm bằng thủy tinh.” Mọi người có thể nhìn
suốt qua con người ông ấy, không có cái gì giấu kín trong đó.
https://gdb.voanews.com/01000000-0a00-0242-3d6b-08dc9ddc7f7e_cx0_cy3_cw0_w1023_r1_s.jpg
Hoàng
Ngọc Tuệ bên bức tượng nhà báo Đỗ Ngọc Yến, người sáng lập nhật báo Người Việt,
California. (Hình: Uyên Nguyên/Người Việt)
Chúng tôi
thường gọi Hoàng Ngọc Tuệ là “ông,” vì Tuệ lớn tuổi nhất, hơn Yến 10 tuổi, hơn
tôi bảy tuổi. Trong đám bạn bè gặp gỡ và làm việc chung với nhau từ năm 1964,
những người đồng lứa với Tuệ như Đoàn Thanh Liêm, Hồ Ngọc Nhuận, ít khi gặp mặt,
chúng tôi cũng dùng chữ “ông” như vậy. Đỗ Anh Tài phiên họp nào cũng đặt ra một,
hai “vấn đề tiên quyết;” Nguyễn Phúc Khánh thường nhắc nhở, “không bàn nữa, làm
việc đi;” cả hai kém Tuệ mấy tuổi nhưng cũng có lúc được gọi là “ông.” Trần Văn
Ngô cũng trẻ nhưng chắc chắn phải dùng chữ “ông” vì Ngô luôn gọi các bạn già trẻ
lớn bé là “ông” hay “bà.” Ngô cũng là một con người cẩn trọng, chững chạc từ lời
nói đến y phục; chỉ phát biểu sau khi suy nghĩ rất kỹ và lúc nào cũng trọng các
nguyên tắc. Mấy người bị gọi là “ông” nhưng vẫn được coi là cùng một thế hệ,
không có ý phân biệt, xa cách. Khi gặp mặt nhau thì vẫn dùng đại từ “anh” với
“tôi.”
Chúng tôi
gặp nhau từ năm 1964, vào lúc các sinh hoạt đoàn thể “bùng nổ” trong giới thanh
niên. Cùng thời gian đó một “xã hội công dân” (civil society) phát triển rất mạnh
ở miền Nam Việt Nam nhờ chế độ chính trị cởi mở hơn – trùm gián điệp Edward
Lansdale đã viết một bài về hiện tượng này trên báo Foreign Affairs. Những năm
trước đó, số hội đoàn thanh niên rất hiếm. Tôi tham dự Hướng Đạo, một phong
trào giáo dục đã ra đời từ thời 1930 và chính thức hoạt động thời Quốc trưởng Bảo
Đại. Ngoài ra còn có Gia đình Phật tử hoạt động trong các chùa và các đoàn
thanh niên và sinh viên Công Giáo. Hoàng Ngọc Tuệ cũng đi Hướng Đạo ở Huế, khi
vào Sài Gòn mới nghỉ để tham dự các đoàn Sinh viên Công Giáo và Thanh Sinh
Công. Tuệ đã sống trong Câu lạc bộ Phục Hưng, do Dòng Đa Minh lập làm nơi cư ngụ
cho các sinh viên xa nhà. Chắc anh đã được Linh mục Alexis Crass dìu dắt.
Cha Alexis
Crass là nhân vật tôi rất cảm phục và kính trọng. Cha là giáo sư dạy lớp tôi
hai năm ở ban Việt Hán, Đại học Sư Phạm Sài Gòn. Một khóa học về sách Trung
Dung của Khổng Tử, một khóa giảng cuốn “Qu’est ce que la Métaphysique” (Siêu
hình học là gì), cuốn sách mỏng về triết lý hiện sinh của Martin Heidegger. Cha
Crass thông thạo tiếng Việt hơn tất cả các sinh viên chúng tôi. Dù giọng nói
còn “lơ lớ” nhưng hiểu biết về từ vựng, văn pháp thì đúng là bậc thầy. Nghe học
trò nói chuyện, có khi ông lắc đầu, nhắc: “Người Việt Nam không nói như vậy!”
Nghe ông giải thích chúng tôi mới biết mình dùng sai tiếng Việt, do ảnh hưởng
đã đọc tiếng Pháp hay tiếng Anh.
Chắc Hoàng
Ngọc Tuệ được Cha Crass khuyến khích hoạt động sinh viên và thanh niên, vì tuổi
tác anh thuộc lớp đàn anh so với các bạn trong Câu lạc bộ Phục Hưng. Năm 1964,
anh Hoàng Ngọc Tuệ đã nạp đơn thành lập một “Phong trào Học đường Phục vụ Xã hội,”
quy tụ các giáo chức và học sinh trung học. Dù anh không thuộc hai thành phần
đó nhưng bạn bè tham dự rất nhiều, bắt đầu là các cựu sinh viên Công Giáo đã
sinh hoạt với Tuệ, sau thu hút các thành viên mới. Tuệ tốt nghiệp dược sĩ, đã
hùn vốn mở tiệm thuốc, rồi bị động viên vào quân đội, nhưng không bao giờ bỏ được
cái nghiệp “hoạt động thanh niên.” Tuệ cùng với các bạn lập ra “Phong trào Phục
vụ” nhưng không thể trực tiếp hoạt động vì vẫn là một quân nhân. Khánh, Tài,
Nhuận và Trần Đại Lộc, Đỗ Ngọc Yến, Trần Viết Ngạc, Hồ Công Hưng và chúng tôi
thường dẫn các học sinh đi làm công tác. Các em đi về miền quê đắp lại các con
đường vỡ lở hoặc lầy lội, xây thêm các phòng cho một trường tiểu học, trung học,
vân vân. Riêng tôi còn nhớ đã làm việc tại các tỉnh Mỹ Tho, Bến Tre, Cần Thơ,
Vũng Tàu.
Năm 1964,
giới trẻ bắt đầu thi hành “quyền lập hội,” một thứ quyền đã được pháp luật cho
phép từ lâu nhưng ít ai sử dụng. Chỉ cần hai người trưởng thành đứng tên xin với
bộ Thanh Niên là có thể lập hội, sau khi được điều tra tư pháp thấy chưa bao giờ
phạm tội. Những hội đoàn không dành cho giới thanh niên thì phải nạp đơn với bộ
Xã hội hoặc bộ Nội Vụ; các công đoàn phải đi qua bộ Lao Động, khó khăn hơn.
Nhưng từ năm 1964 luật lệ cũng được nới lỏng.
Tuy không
trực tiếp “đi trại công tác” nhưng mỗi lần về Sài Gòn là Hoàng Ngọc Tuệ vẫn hoạt
động rất tích cực. Một việc anh hay làm là họp với các đoàn thể thanh niên
khác, bày ra các chương trình công tác chung. Tôi còn nhớ đã đưa “Phong trào Phục
vụ” vào dự một “Liên hội Công tác Nông thôn,” với Hội Thanh Niên Thiện Chí, đầu
năm 1964. Đó là dịp được quen Trần Văn Ngô. Có Thanh Sinh Công, nên làm quen với
Trần Ngọc Báu từ đó.
Sinh hoạt
chung đó tạo mầm móng cho một công tác lớn là “Cứu Lụt,” tháng 10 năm 1964 một
trận bão lụt hiếm có đã tàn hại các tỉnh miền Trung. Nhiều đoàn thể thanh niên
có mặt trong vụ Cứu Lụt này. Học sinh khắp nước đi lạc quyên cứu lụt. USAID của
Mỹ tặng rất nhiều thực phẩm, quần áo, mền, mùng, vân vân. Chúng tôi đã gặp Bác
sĩ Phan Quang Đán, bộ trưởng Xã hội, ông tiếp đón rất thân mật và chấp nhận sẽ
huy động guồng máy công chức của bộ chuyển các “phẩm vật cứu trợ” cho các toán
sinh viên, học sinh đem phát tận tay đồng bào nạn nhân của Cơn Bão Năm Thìn.
Ông cũng vận động có máy bay chuyên chở. Trần Đại Lộc, Đỗ Ngọc Yến và tôi đưa
hơn 100 sinh viên học sinh, chia làm hai toán đi khắp tỉnh Bình Định trong hai
tuần. Đi qua Phù Cát, Phù Mỹ còn lo bị Việt Cộng giật mìn hay bắn sẻ. Khi chúng
tôi đang công tác ở Hoài Ân và Bồng Sơn thì Việt Cộng đang tấn công quận An Lão
gần đó. Phạm Doãn Huề, sinh viên dược khoa, phụ trách giúp các đồng bào tị nạn ở
Quảng Ngãi. Có lúc nhà vệ sinh bị tắc nghẽn, Huề hết sức chữa không được, đã
thò tay vô bồn cầu móc hết rác rưởi ra cho thông. Nhưng khi đoàn học sinh mang
thức ăn và quần áo tới một làng còn đang ngập lụt, một người đàn ông đã yêu cầu
dân chúng không được nhận. Anh ta đổ cả bao gạo xuống ruộng nước vì trên bao viết
Mỹ Viện Trợ! Ai cũng đoán anh là một cán bộ Cộng Sản.
Trong công
tác cứu lụt, một quy tắc chúng tôi đặt ra là các sinh viên, học sinh phải tự
túc thức ăn, không được dùng các “thực phẩm cứu trợ!” Hoàng Ngọc Tuệ, Trần Văn
Ngô và các bạn khác ở lại Sài Gòn lo đi xin tiền mua thức ăn cho các toán công
tác.
Công tác Cứu
Lụt cuối năm 64 tạo cơ hội cho các đoàn thể họp lại trong Chương trình Công tác
Hè 65. Hơn 40 người thuộc nhiều đoàn thể đứng ra thành lập; buổi họp đầu tiên ở
trụ sở Sinh viên Phật tử, có Trần Thị Thức, Tôn Thất Chiểu, Tôn Thất Cần, …;
phía Công Giáo có Trần Ngọc Báu, Đỗ Anh Tài,…; Hà Dương Thị Quyên thuộc Nữ Hướng
Đạo. Đỗ Ngọc Yến được bầu làm tổng thư ký của Chương Trình Hè 65, Đỗ Thị Văn giữ
ban Hành Chánh, Phan Huy Chiêm lo Tài chánh, Tài làm trưởng ban công tác, Trần
Đại Lộc và Phạm Phú Minh lo huấn luyện, Quyên làm thủ quỹ, Vũ Dzũng làm ban văn
nghệ, vân vân. Phải xác nhận chương trình này là do IVS, International
Voluntary Service, một đoàn thể chí nguyện của các thanh niên Mỹ ở Sài Gòn gợi
ý, vì họ được USAID hứa trợ cấp mấy trăm ngàn mỹ kim để làm công tác xã hội.
Sau này nhóm IVS đã rút hết về Mỹ vì họ chống chiến tranh.
Với số tiền
của USAID, một con số rất lớn thời đó mà tôi không nhớ là bao nhiêu, Chương
trình Hè đã tổ chức các trại công tác cho học sinh khắp 40 tỉnh miền Nam, do
các giáo sư thiện chí hướng dẫn. Cuối năm 1965 đã làm một trại công tác lớn,
xây dựng hàng trăm ngôi nhà tranh, mái tôn cho đồng bào tị nạn, ở Thạnh Lộc
Thôn, trên đường đi Bình Dương.
Chúng tôi
lấy lý do không có kinh nghiệm hành chánh đã yêu cầu USAID gửi cho một chuyên
viên đến giúp làm sổ sách kế toán. Cụ Khánh đã bày cho các thủ tục chuẩn chi,
phát ngân, các loại biên nhận và hóa đơn, vân vân. Các hồ sơ đều được trao cho
cụ, một viên chức cần mẫn và đức độ. Đó cũng là một cách cho người Mỹ thấy
thanh niên Việt Nam làm việc minh bạch.
Tại trụ sở
Chương trình Hè có một anh cảnh sát chìm lúc nào cũng có mặt quan sát những buổi
họp, tên anh là Năng. Nhưng ai cũng biết hai người thân Cộng là Lê Hiếu Đằng và
Đỗ Thị Văn, chú Nguyễn Văn Nhanh thì là “Cộng Sản nằm vùng,” đích thực, đóng
vai “lao công” cần mẫn làm đủ thứ việc, sau năm 1975 giữ chức lớn trong guồng
máy công an. Nhưng hồi tôi ở Montréal, Canada, đã nghe Văn nhắn lời nhắc lại thời
Chương trình Hè làm được nhiều việc ích lợi cho đất nước. Chú Nhanh cũng nói với
Hà Tường Cát như vậy, khen “các anh” là những người đầy thiện chí. Sau khi Lê
Hiếu Đằng từ bỏ đảng Cộng sản, tôi đã liên lạc email với anh, bùi ngùi nhắc lại
thời Chương trình Hè 65.
Đoàn Thanh
Liêm, Hoàng Ngọc Tuệ, Hồ Ngọc Nhuận không thể tham dự Chương trình Hè vì các
anh chuyên chú lo Chương trình Phát triển Quận Tám được Võ Long Triều, Bộ trưởng
Thanh Niên ủng hộ. Chương trình Hè 65 là một đỉnh cao trong các hoạt động thanh
niên thời đó. Từ năm 1966, một chính quyền quân sự muốn kiểm soát chặt chẽ, họ
lập ra một “Phong trào Thanh niên Trừ gian,” nhưng không làm được việc gì đáng
kể. Các nhà giáo trong Chương trình Hè rút về làm CPS, tên tắt của Chương trình
Phát triển Sinh hoạt Thanh niên Học đường. CPS hoạt động tại các trường trung học
khắp nước trong suốt thời gian Bác sĩ Trần Ngọc Ninh làm Tổng trưởng Văn hóa
Giáo dục. Phan Văn Phùng, Phạm Phú Minh, Trần Đại Lộc, Trần Viết Ngạc tham dự đầy
đủ nhất.
Đỗ Ngọc Yến,
Hoàng Ngọc Tuệ không phải là nhà giáo nên không tham gia CPS nhưng hai anh vẫn
giữ liên lạc với các bạn, vì tình thân thương nảy nở sau nhiều năm chung sức
giúp ích đồng bào, phục vụ quê hương một cách cụ thể. Tình thân đó thấm vào tất
cả đám thanh niên chúng tôi từ năm 1964, còn tiếp tục mãi. Gọi chung là “Nhóm
Anh em!” Sau năm 1975, mỗi lần nghe tin một người mới vượt biển chạy thoát, những
bạn đã tị nạn từ trước đều nhanh chóng báo cho nhau biết, gửi tiền tới một hòn
đảo ở vùng Đông Nam Á để giúp đỡ.
Khi làm
báo Người Việt, từ tháng 12 năm 1978, Đỗ Ngọc Yến luôn luôn mời các bạn mới qua
vào làm việc để được “lãnh lương” (khi nào tờ báo có tiền), trong lúc chờ tìm
được việc làm. Nhiều người, như Nguyễn Đức Quang, Trần Đình Quân, Hoàng Ngọc Tuệ,
Nguyễn Khả Lộc, vân vân, không có kinh nghiệm nào về báo chí đã bước vào “nghề
làm báo” như thế. Khi lập ra một “công ty,” Đỗ Ngọc Yến yêu cầu dành một số “cổ
phần” cho những “anh em” không có mặt, như Trần Văn Ngô ở Pháp; chính tôi ở
Canada; Hà Tường Cát, Trần Đại Lộc ở Việt Nam; Phạm Phú Minh, Đỗ Tăng Bí thì vẫn
còn đang ở trong tù.
Đỗ Ngọc Yến
“chia cổ phần” như vậy để chứng tỏ “tình anh em” này có thật. Hoàng Ngọc Tuệ rất
thiết tha với tình thân đó, luôn biểu hiện một cách cụ thể. Một lần, nghe tin
có đám cháy lớn trên mấy sườn đồi ở khu Irvine, nơi gia đình Phan Huy Đạt mới về
ở căn nhà mới. Tuệ đã điện thoại cho Yến yêu cầu gọi anh em cùng xuống Irvine
chữa cháy giúp Đạt. Anh bảo mỗi người nhớ mang theo mấy cái thùng để chứa nước
đổ lên dập tắt lửa nếu nhà Đạt bị cháy. Yến và tôi không làm theo lời anh, vì
biết rằng có ai tới nơi thì cũng bị “lính cứu hỏa” đuổi ra ngoài. Nhưng Tuệ là
người như vậy. Hồn nhiên, trong suốt, con người làm bằng thủy tinh, như Yến nhận
xét. Vì đức trung trực, thành thật của anh, cũng vì anh lớn tuổi nhất nên mỗi lần
họp mọi người đều mời anh chủ tọa. Anh làm đúng vai trò điều hợp, nghe theo các
đề nghị, để mọi người phát biểu, bỏ phiếu quyết định, không thiên vị hoặc bảo vệ
ý kiến riêng của mình.
Sau những
năm 1966, 67, chế độ quân nhân không còn cho các đoàn thể thanh niên hoạt động
như cũ, Hoàng Ngọc Tuệ tiếp tục hỗ trợ, thúc đẩy phong trào Du Ca hết lòng. Du
Ca do các nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, Hoàng Thái Lĩnh, Trần Trọng Thảo, Hoàng Kim
Châu, Đinh Gia Lập bắt đầu nhưng chỉ hoạt động mạnh khi Hoàng Ngọc Tuệ kéo họ về
cộng tác với Bộ Thanh Niên. Chính nhờ Tuệ dùng các phương tiện của Bộ nên các
đoàn du ca đã phát triển khắp các tỉnh. Sau khi anh rời chức giám đốc, Du Ca đã
tụ họp tại ngôi nhà riêng của anh, cũng gần nhà Đỗ Ngọc Yến. Hồi đó không ai ngờ
rằng Phong trào Du Ca lại là di sản sống lâu nhất trong tất cả các hoạt động
thanh niên trong những năm 1964, 65! Nguyễn Đức Quang là người khai sáng, là
linh hồn của Phong trào Du Ca; nhưng phải ghi công hai người đã thay phiên nhau
duy trì sinh hoạt, làm chủ tịch phong trào, là Hoàng Ngọc Tuệ và Đỗ Ngọc Yến!
Ai cũng sẽ
ra đi nhưng di sản đáng nhớ nhất vẫn là con người. Hoàng Ngọc Tuệ là một người
tốt. Các con, cháu anh có lẽ sẽ không có cơ hội phục vụ xã hội như chính anh
nhưng ai cũng có thể cố gắng theo gương anh sống “làm một người tốt.”
Hoàng Ngọc
Tuệ qua đời ngày 15 tháng Sáu, tại California, thọ 92 tuổi.
--------------------------------
Bài trước
25 THÁNG
6, 2024
No comments:
Post a Comment