Việt
Nam có giải pháp nào cho tranh chấp Biển Đông?
Theo tôi, trước hết cần phân loại các tranh chấp
theo địa lý. Ta có hai “vùng” tranh chấp: Vùng Hoàng Sa (HS) và vùng Trường Sa
(TS). Ranh giới địa lý giữa hai vùng có thể là đường vĩ tuyến 12° bắc.
Vùng Hoàng Sa có hai “loại” tranh chấp. Thứ nhứt
tranh chấp về “chủ quyền”. Tranh chấp này liên quan đến Việt Nam (Việt Nam) và
Trung Quốc (TQ). Nếu tính thêm Đài Loan là “một bên” thì tranh chấp chủ quyền
các đảo HS là “tranh chấp tay ba” VN, TQ và Đài Loan.
Tranh chấp loại 2 là tranh chấp phát sinh do đối
kháng yêu sách: a) về vùng nước (EEZ), bao gồm các tranh chấp về tài nguyên thuộc
về cột nước (cá). Và b) do yêu sách đối kháng về thềm lục địa (và tài nguyên
thuộc về thềm lục địa).
Tranh chấp loại 2 bao gồm các bên VN, TQ (và
Đài Loan).
Ngoài ra giữa TQ (và Đài Loan) còn có tranh chấp
với Phi do chồng lấn EEZ và thềm lục địa, phát sanh từ đường cơ bản các đảo của
Phi với các yêu sách (Tam Sa, Tứ Sa, vùng nước lịch sử của TQ).
Cách giải quyết (cho VN) đối với vùng biển Trường
Sa tôi có đề cập hôm qua. Đó là nguyên tắc “Actio Popularis”.
“Cuộc chiến công hàm” tại Ủy ban ranh giới Thềm
lục địa thuộc LHQ bản chất là một hành động chung của nhiều quốc gia (actio
popularis). Lập trường của mỗi quốc gia được thể hiện qua các công hàm đệ trình
lên văn phòng TTK LHQ, với nội dung ủng hộ Phán quyết của Tòa trọng tài thường
trực (PCA) 14-7-2016 (được thành lập theo thủ tục bắt buộc thuộc Phụ lục VII của
Luật quốc tế về Biển (UNCLOS 1982).
Bước tiếp theo, để hành động chung của các quốc
gia (actio popularis) trở thành một “luật chung” áp dụng cho các quốc gia có
liên quan, tôi đã đề nghị VN nên đưa kết quả vận động này ra trước một Tòa án
quốc tế, như Tòa Công lý quốc tế. VN có thể yêu cầu Tòa cho một “Ý kiến –
Avis”, hay một phán quyết, rằng “cách giải thích Luật Biển và cách áp dụng Luật
Biển theo Phán quyết của Tòa PCA ngày 14-7-2016 có giá trị erga omnes cho tất cả
các quốc gia có liên quan”.
Về tranh chấp vùng Hoàng Sa. Hôm tuần rồi tôi
có nhắc lại ý kiến của học giả Gregory Poling về đề nghị copy mô hình kiện của
Phi áp dụng cho vùng Hoàng Sa. Tức là, VN mô phỏng theo “thủ tục bắt buộc” qui
định ở Phụ lục VII UNCLOS để nhờ một Tòa (ad hoc) “giải thích Luật Biển và cách
áp dụng Luật biển trong vùng biển Hoàng Sa”.
Ý kiến của học giả Gregory Poling không phải
là mới. Cá nhân tôi đã có đề nghị tương tự từ tháng 7 năm 2016. Bài viết kèm dưới
đây cho thấy điều này.
Dĩ nhiên ý kiến nào cũng có những sơ sót. Điều
quan trọng là học giả VN phải có ý kiến cho những vấn đề của đất nước. Bài viết
từ năm 2011 tôi đưa lại hôm trước tôi có nói rằng học giả VN không thể nào “tầm
gởi” vào ý kiến của những học giả nước ngoài. Chuyện của VN phải do người VN lo
liệu và quyết định. Tầm gởi vào ý kiến của bất kỳ ai, bất kỳ chủ nghĩa ngoại
lai nào, đều là “tầm bậy”.
***
Kiện hay đàm phán ở Biển Đông?
Câu hỏi đã được các học giả tham gia “bàn tròn
BBC” đặt ra, sau khi Tòa CPA ra phán quyết ngày 12-7 về vụ Phi đơn phương kiện
TQ về các cách diễn giải và áp dụng bộ Luật Biển 1982.
Kết quả phán quyết ra rao mọi người đều biết.
Phi đã thắng lớn trong vụ kiện.
Đường chữ U chín đoạn, yêu sách của TQ về “quyền
lịch sử” (và trong chừng mực “danh nghĩa lịch sử”) ở khu vực Biển Đông đã bị
Tòa bác bỏ. Đơn giản vì các yêu sách về lịch sử này đã không được TQ chứng
minh. Dầu vậy, theo Tòa, ngay cả khi các yêu sách (lịch sử) này được chứng
minh, chúng cũng không còn ý nghĩa, vì nó đi ngược lại tinh thần Công ước về Luật
Biển 1982 (UNCLOS). Tòa cũng cho rằng các đảo thuộc TS không có cái nào được
xem là “đảo” để có thể yêu sách vùng “kinh tế độc quyền” 200 hải lý. Phán quyết
12-7-2016 vì vậy hạn chế yêu sách của TQ thể hiện qua tấm bản đồ (đường 9 đoạn)
gởi lên LHQ năm 2009.
Trên lý thuyết, yêu sách đường chữ U chín đoạn
của TQ không còn lý do hiện hữu (ở vùng biển TS) nữa. VN vì vậy cũng thắng lớn.
Nguyên nhân thất bại của TQ, dĩ nhiên đến từ
các yêu sách vừa phí lý, vừa quá lố của nước này. Nhưng chính yếu là do TQ đã
không tham gia vụ kiện. Các động thái của TQ, ngay vừa khi Tòa bắt đầu nhận đơn
của Phi, như cho bồi đắp, xây dựng các đảo nhân tạo tại các bãi cạn, đá… mà họ
chiếm được của VN năm 1988… đối với Tòa là một sự khiêu khích trắng trợn, coi
thường luật pháp quốc tế.
Phán quyết ngày 12-7 của Tòa là một cái tát
vào mặt TQ (và là một bài học cho VN). Đáng lẽ phán quyết đã không đến đỗi nặng
nề như vậy. Nguyên lý là kẻ vắng mặt lúc nào cũng bị thiệt thòi.
.
VN kiện, hay đàm phán, về cái gì với TQ?
Phán quyết của Tòa CPA ngày 12-7 đã không chỉ
giải quyết những tranh chấp giữa VN và TQ tại khu vực TS mà còn mở cho VN nhiều
cơ hội pháp lý (và ngoại giao) để giải quyết Hoàng Sa, vấn đề đã bị “đông lạnh”
ít ra từ năm 1975 đến nay.
Cho rằng VN thắng lớn không phải là quá lố. Vấn
đề Trường Sa coi như “không đánh mà thắng”, không mua mà được. VN còn có thể
khai thác “chiến thắng” này cho khu vực Hoàng Sa, tranh chấp giữa VN và TQ. Bao
gồm : tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và khác biệt lập trường phân định biển (đến
từ các việc đối kháng về cách diễn giải về Luật Biển như vùng nước quần đảo,
tình trạng pháp lý các thực thể ở Hoàng Sa…) .
Kiện, vấn đề thuộc “pháp lý”, đàm phán thuộc
ngoại giao.
Vấn đề VN có thể kiện, hay đàm phán, TQ về cái
gì tại Hoàng Sa?
Tranh chấp về chủ quyền Hoàng Sa giữa VN và TQ
đã kéo dài hơn thế kỷ.
Từ thập niên 30-40 của thế kỷ trước, nhà nước
bảo hộ Pháp, đã hai lần thách thức TQ giải quyết tranh chấp HS trước một trọng
tài quốc tế. Cả hai lần TQ đều khước từ. TQ cũng không hề “đàm phán” với nhà nước
bảo hộ Pháp về Hoàng Sa. Họ chờ dịp thuận tiện thì ra tay. Tháng giêng 1974 mở
ra cho TQ cơ hội ngàn năm: VNCH đang bị VNDCCH uy hiếp về quân sự trong khi “đồng
minh” Mỹ đã rút lui theo Hiệp định Paris 1973. TQ đưa quân chiếm trọn HS, qua một
cuộc chiến bất cân xứng về lực lượng giữa hải quân TQ và hải quân VNCH.
Sau 1975, VNDCCH thắng trận và “thống nhứt đất
nước”, không thấy hai bên VN và TQ đá động gì đến HS. Chỉ đến tháng giêng 1979,
chiến tranh biên giới bùng nổ, VN ra tuyên bố về chủ quyền của VN tại HS và TS
cũng như giải thích lại nội dung các tuyên bố đơn phương trước đây của VN liên
quan đến chủ quyền HS và TS (như công hàm 1958).
Hòa bình được thiết lập, bang giao hai bên Việt-Trung
được hàn gắn, từ đầu những năm 90, qua hệ quả của Hội nghị Thành Đô.
Từ đó đến nay không hề nghe có “đàm phán” nào
giữa hai nước về Hoàng Sa. Việc phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Việt, tiếp
nối theo việc phân định Vịnh Bắc Việt (hiệp ước ngày 25-12-2000), vẫn trong
tình trạng bế tắc mặc dầu công trình phân định Vịnh Bắc Việt đã kết thúc từ
lâu. Nguyên nhân dĩ nhiên đến từ tranh chấp chủ quyền cũng như hiệu lực các đảo
HS.
Cho đến khi TQ kéo giàn khoan HY 981 đặt trên
thềm lục địa VN, cách đảo Lý sơn của VN khoảng 100 hải lý, cách đảo Tri Tôn
(thuộc HS) khoảng 20 hải lý. Mâu thuẩn giữa hai bên VN và TQ mới được biểu lộ
ra trước công chúng. Đối với VN, hành vi TQ đặt giàn khoan HY 981 nhằm thám hiểm,
thăm dò thềm lục địa là xâm phạm đến quyền chủ quyền, quyền tài phán của VN, được
thiết lập theo Luật Biển 1982. Lập luận của TQ là giàn khoan HY 981 hoạt động
trong khu vực biển và thềm lục địa của quần đảo HS.
Khủng hoảng đem đến do giàn khoan HY 981 hiển
nhiên bắt nguồn từ việc đối kháng cách diễn giải bộ Luật Biển 1982 về “hiệu lực
các đảo” thuộc quần đảo Hoàng Sa theo điều 121. Ngoài ra còn có quan điểm của
TQ về “vùng nước quần đảo”, thể hiện qua hệ thống đường cơ bản của quần đảo HS
mà TQ đã công bố từ năm 1996.
Khủng hoảng do giàn khoan HY 981 đem lại ít
nhiều hệ quả trong xã hội VN. Dầu vậy vẫn không có “đàm phán” nào giữa hai bên
VN và TS về vấn đề Hoàng Sa.
Tin tức từ trong nước cho biết, từ lâu, TQ
không nhìn nhận “có tranh chấp với VN về HS”. Đối với TQ, HS là chuyện đã rồi,
đã thuộc về TQ. TQ không chấp nhận bất kỳ một “đàm phán” nào với VN về vấn đề
này.
Sau vụ giàn khoan HY 981, ta có thể khẳng định
rằng tin tức nói trên là đúng.
Không hề có “đàm phán” nào giữa VN với TQ về vấn
đề HS. Vị trí mà TQ đặt giàn khoan cho ta biết yêu sách về biển của TQ.
Vì vậy, ý kiến các học giả VN trên “bàn tròn
BBC” hết sức là “bồng bột” khi cho rằng VN “không đàm phán song phương với TQ”.
Chưa bao giờ TQ muốn ngồi vào bàn đàm phán với
VN về vấn đề HS cả.
Nhưng từ phán quyết ngày 12-7 của Tòa, VN có
thể “ép” TQ ngồi vào bàn “đàm phán” với mình về tranh chấp Hoàng Sa.
VN có thể vịn vào 3 khoản:
1/ các đảo HS, tương tự như TS, không có cái
nào phù hợp cho đời sống một cộng đồng dân chúng cũng như có thể có một nền
kinh tế tự tại.
2/ không hiện hữu vùng nước quần đảo và,
3/ ngư trường Hoàng Sa là ngư trường truyền thống
của ngư dân VN.
Từ những luận điểm này VN có thể “đàm phán
song phương” với TQ để thực hiện các điều:
1/ phân định vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Việt
và xác định đường phân định giữa bờ biển VN và đảo Hải Nam.
2/ Trong vùng lãnh hải 12 hải lý các đá thuộc
HS là ngư trường lịch sử của VN.
Đàm phán “song phương”, bởi vì các việc phân định
biển và việc xác định ngư trường truyền thống các đá ở HS là chuyện “riêng” giữa
VN và TQ.
Chỉ khi nào TQ một mực từ chối “đàm phán”, lúc
đó ta mới có thể nghĩ đến việc đi kiện.
Bởi vì, việc “đi kiện” (trước Tòa án về Luật
Biển) chỉ được một bên áp dụng khi mà mọi phương án “ngoại giao” (tức đàm phán)
đều cạn kiệt. Luật Biển 1982 xác định rõ việc này ở các điều 281 và 282.
VN bị ràng buộc bởi các tuyên bố chung VN-TQ,
theo đó hai bên giải quyết các tranh chấp thông qua thủ tục “đàm phán” và (việc
đàm phán) dựa lên căn bản:
“Tuân thủ những nhận thức chung quan trọng đạt
được giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước… nghiêm túc thực hiện những Thỏa
thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam –
Trung Quốc”.
Do đó, ngay khi cả việc “đàm phán” đã kiệt, vì
TQ không chấp nhận đàm phán, như vụ giàn khoan 981, việc đi kiện đối với VN vẫn
không dễ.
Chúng ta đâu ai biết được “những nhận thức của
lãnh đạo” về HS và TS là gì? Lãnh đạo này là ai ? (Nếu là ông Hồ hay ông Đồng,
thì VN xem như mất HS và TS).
Những “thỏa thuận” giữa hai bên về “nguyên tắc
cơ bản” gồm những nguyên tắc nào?
Vì vậy, theo tôi, nếu ta không làm sáng tỏ những
chi tiết ghi trên thì việc “lo liệu hồ sơ” đi kiện cũng hoài công.
Bởi vì, tranh chấp giữa VN và TQ về HS đã trên
100 năm, tranh chấp TS bắt đầu từ sau Thế chiến Thứ hai, cũng đã tròn 70 năm. Từ
1975, VN đã có vô số cơ hội đi kiện TQ để giải quyết vấn đề mà VN đã không đi
kiện.
Tranh chấp giữa TQ và Phi chỉ bộc phát mới
đây. Phi chỉ bắt đầu yêu sách một số đảo TS từ thập niên 50, mà nguyên tắc về
thụ đắc chủ quyền lãnh thổ của Phi cũng không tuân thủ theo tập quán quốc tế.
Phi chỉ kiện TQ qua sự việc TQ chiếm các đá Scarborough, uy hiếp quân Phi ở bãi
Cỏ Rong, cho xây dựng đảo nhân tạo ở bãi chìm Vành Khăn… Tức những sự kiện chỉ
xảy ra mới đây, không quá 5 năm.
VN không kiện TQ hẵn nhiên có một số lý do tiềm
ẩn. Và có thể VN sẽ không bao giờ kiện được TQ, cũng bởi những lý do tiềm ẩn
này.
Nhưng từ phán quyết 12-7 của CPA, VN có thể vịn
vào một số phán lệnh làm cơ bản, từ đó “ép” TQ ngồi vào đàm phán với mình về
Hoàng Sa. Khi TQ chấp nhận đàm phán, tức là TQ đã nhìn nhận “có tranh chấp” ở
HS.
Vì vậy lý lẽ của các học giả “không đàm phán
song phương với TQ ở HS” không chỉ “bồng bột” mà còn thể hiện sự phi lý.
Nếu đi kiện, VN cũng không thể kiện ra ngoài nội
dung các bảo lưu của TQ (về chủ quyền, về phân định biển). VN chỉ có thể kiện ở
các nội dung tôi đã liệt kê ở trên. Mà theo các điều 282, 283 của Luật Biển, VN
chỉ có thể kiện khi “đàm phán” đã kiệt.
Ý kiến của các học gia không chủ trương VN đàm
phán với TQ, vậy thì VN có thể làm cái gì?
Nếu kiện thì kiện cái gì? Kiện ở đâu?
*****
Thấy học giả VN lên truyền thông quốc tế
"chém gió" thiệt tình sốt ruột. Tình hình nóng bỏng ở Biển Đông, VN cần
các học giả, các giáo sư tiến sĩ... cho một "giải pháp" chớ không cần
các lời "gió bay" hay các lời phân tích cao siêu.
Đọc RFI thấy có đăng tin
Philippines đặt phao trên biển để đánh dấu ranh giới vùng biển EEZ của quốc
gia. Xem ra học giả Phi "quyền biến" hơn học giả VN rất nhiều.
Còn VN thì bên quí bạn Đại ký sự Biển Đông
đăng hình cho thấy tàu TQ vẫn tiếp tục "rà tới rà lui" trong vùng biển
EEZ của VN.
Nói nào ngay bà con cũng nên cám ơn quí bạn
chăm lo trang Đại ký sự Biển Đông. Không có quí bạn này "ăn cơm nhà vác
ngà voi" báo cáo thường xuyên tình hình Biển Đông thì đồng bào ta xem như
là "mù và điếc". Vì vậy tôi đề nghị, các tập đoàn truyền thông lớn
(như VOA) khi lấy tin tức của quí bạn ở đây thì "mở hầu bao" rộng rãi
một chút. Kho bạc Mỹ chớ đâu phải hủ "gạo" nhỏ xíu của những người
nghiên cứu a ma tơ (như tui).
Trở lại chuyện Phi đánh dấu
ranh giới biển. Hiển nhiên là nhờ Phán quyết của Tòa PCA 14-7-2016 mà Phi biết
đâu là giới hạn pháp lý các yêu sách của TQ. Ngay cả khi TQ không tuân thủ Phán
quyết thì quốc gia này cũng không dám làm chuyện ngang ngược trên vùng biển được
xác định của Phi. Mọi hành vi sử dụng vũ lực của TQ trên vùng biển (đã được luật
pháp quốc tế xác định) của Phi sẽ bị cộng đồng quốc tế xem là
"agression", xâm lược bằng vũ lực vùng biển của quốc gia khác.
Còn VN ?
Ngay cả lúc viết những giòng chữ này, VN vẫn
còn cơ hội để xác định ranh giới trên biển, vùng Trường Sa, tương tự như Phi.
Ngay cả khi VN thua xiểng liểng "cuộc chiến công hàm".
VN có thể tập hợp tất cả các công hàm của các
quốc gia đã nộp lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa thuộc Văn phòng TTK LHQ, ngoại
trừ các công hàm của TQ. Những công hàm có nội dung ủng hộ Phán quyết của tòa
PCA 14-7-2016. Dựa theo nội dung các công hàm này VN đệ đơn yêu cầu một Tòa án
quốc tế, tốt nhứt là Tòa Công lý quốc tế, cho một "ý kiến", hay một
"phán quyết", rằng "cách giải thích Luật Biển và cách áp dụng Luật
Biển theo Phán quyết của Tòa PCA ngày 14-7-2016 có giá trị erga omnes cho tất cả
các quốc gia có liên quan".
Nếu VN không tận dụng hiệu quả của "cuộc
chiến công hàm" thì chắc chắn VN và TQ đã có những "thỏa thuận
riêng" về số phận thềm lục địa của VN.
No comments:
Post a Comment