Tại
sao Vũ Hoàng Chương bị bắt
Phạm-công Bạch, CVA 57
Hội Ái Hữu Cựu
Học Sinh Chu Văn An Bắc California
Thứ tư, 15 Tháng 7 2015 18:05
https://www.chuvananbc.com/index.php/bai-vi-t/tai-sao-vu-hoang-chuong-bi-bat
Chúng ta, những người dân Sài gòn sau tháng 4
-1975, ai cũng đã từng nghe: "Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu Công
Lý, Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do", để nói về hai con đường bị
Công Lý và Tự Do bị đổi tên thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Đồng Khởi. Nhưng
ít người biết tác giả 2 câu này chính là nhà thơ Vũ Hoàng Chương. (HL)
TẠI SAO VŨ HOÀNG CHƯƠNG BỊ BẮT VÀO TÙ KHÁM LỚN?
Phạm-công Bạch, CVA 57
Đã là cựu học sinh Chu-văn-An, ai không biết
thi sĩ Vũ-hoàng-Chương là một vị giáo-sư Việt Văn rất đáng mến. Quả thật vậy,
trong cuộc đời thi sĩ, Ông đã từng xuất bản cả chục tập thơ và kịch thơ , cũng
như trong nghề dạy học, ai đã từng là học trò Ông thảy đều thương kính,
coi Ông như một vị giáo sư có đầy đủ tác phong về đạo đức và sư phạm. Hơn thế nữa,
hãy xem nhà văn Song-Thao (cũng là một cựu học sinh Chu-văn-An) mô tả Ông trong
tập truyện “Chốn cũ” vừa xuất bản:
“Thầy đi quanh lớp bằng những bước chân
nhẹ nhàng, đầu nghểnh cao, mắt xa vắng, giảng bài bằng cái giọng nhừa nhựa
thanh thanh. Có những lúc mắt thầy như nhắm hẳn lại, đầu lắc lắc từng chặp. Những
lúc đó thầy như thoát hồn bay về một trời thơ nào đó. Thầy say thơ. Thầy ngâm
thơ như một người đồng thiếp. Như không còn thầy. Như không có trò. Như không
phải là một lớp học. Chỉ có một cõi thơ lồng lộng bát ngát. Chúng tôi cũng thấm
thơ. Vô cùng nồng nàn là những dòng thơ đất Việt. Chỉ có tiếng chuông báo hết giờ
học mới có thể kéo thầy trò ra khỏi cơn mê văn chương…”
Làm thơ đã hay, dạy học thì say mê như thế,
Vũ-hoàng-Chương không hề làm chính trị. Hồi toàn quốc kháng chiến năm
1946, Ông cũng chỉ tản cư khỏi thành phố một thời gian rồi lại hồi
cư, chứ không ra bưng. Từ năm 1954 khi di cư vào Saigon, Ông cũng không tham
gia một đảng phái nào. Thế nhưng cuộc đổi đời ” tháng tư đen” đã đưa Ông vào
tù và chỉ được tha về khi kiệt lực gần chết. Chúng ta thử tìm hiểu nguyên
do nào đã đưa Ông vào vòng lao lý gần một năm trời. Với thân hình gầy còm và “ả
phù dung” dằn vặt làm sao Ông sống nổi. Kể ra cũng có nhiều lý do xa gần.
Bài thơ hoạt cảnh Tết Con Rồng.
Miền nam ViệtNam bị mất về tay cộng sản
tháng tư năm 75 thuộc năm Mão. Cuộc đổi đời đã gây ra nhiều cảnh éo le cả về
hoàn cảnh xã hội lẫn nhân tình thế thái. Vũ-hoàng-Chương bị kẹt lại và Ông đã mắt
thấy tai nghe và ngay cả chính Ông cũng là nạn nhân của sự thế . Cuối năm bước
sang năm Thìn là tết con rồng, Ông đã làm một bài thơ tức cảnh như sau:
Vịnh
tranh gà lợn
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành,
Gà lợn om sòm rối bức tranh.
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh.
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành.
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.
Đây đích thực là hoạt cảnh của miền Nam sau mấy
tháng về tay chủ mới: Chính quyền tiếp thu vào tay cộng sản chưa hoàn toàn kiểm
soát được xã hội vốn vẫn thoải mái trong nếp sống từ bao năm qua. Dân chúng vẫn
hoài nghi cách mạng cho nên tình thế chưa thấy gì làm sáng sủa. Mặt khác đa số
người thuộc chế độ cũ không tin miền Nam có thể dễ dàng rơi vào tay cộng
sản như vậy nên thầm kín trong lòng vẫn ước mong lật ngược thế cờ khỏi cảnh tối
tăm hiện tại.
Với bối cảnh xã hội như vậy, kẻ hồ hởi, người
âm thầm cho nên nẩy sinh ra lắm vẻ, biết ai là ai bây giờ. Bức tranh xã hội thật
là rắm rối. Cộng sản đi đến đâu thì mạng lưới công an rình rập nhòm ngó tới đó.
Kẻ thân trong nhà cũng còn nghe lén để báo cáo lập công thì còn biết tin ai bây
giờ. Cho nên nhìn bề ngoài đố biết lòng dạ ai thế nào.
Ngay như chính tác giả cũng đã là nạn nhân của
lòng người đổi trắng thay đen. Số là Vũ-hoàng-Chương và gia đình đã từ lâu vẫn ở
nhờ trên căn gác nhỏ trong biệt thự của bà Mộng-Tuyết (phu-nhân thi sĩ Đông-Hồ),
Ông đã từng đặt tên đây là “gác mây” để Ông bạn với “ nàng thơ” và “nàng tiên
nâu”. Thế nhưng từ khi có cán bộ từ ngoài bắc vào, Bà Mộng-Tuyết thì hồ hởi tiếp
đón, còn Vũ-hoàng-Chương thì lặng lờ như không Cho nên Bà muốn đỡ phiền lụy sau
này đã ngỏ ý muốn Ông dời nhà đi ở chỗ khác. Chính vì vậy mà thi sĩ họ Vũ đã phải
dời sang Khánh hội ở nhờ nhà em vợ là thi sĩ Đinh-Hùng. Ôi tình nghiã bao năm
như vậy mà chỉ vì một chút “quáng” đã làm cho huynh đệ ly tan ! Riêng đối với
Ông, con người còn tình người, chân thật và chất phác thì vẫn “một tấc thành”
không a dua xu nịnh với ai.
Bây giờ xuân và tết đến, thôi hãy quên hết moi
sự mà nghe khúc tân thanh của năm con rồng. Theo tôi, ý giả của câu cuối bài
thơ này là như vậy; nhưng nghĩ kỹ hơn,nếu chúng ta ở Saigon trong thời điểm đó
thì “khúc tân thanh” ở đây chính là những loa tuyên truyền ra rả sáng chiều mà
cộng sản đặt ở khắp phường phố. Cũng có thể nghĩ xa hơn, khúc tân thanh chỉ là
sự rút gọn của “khúc Đoạn trường tân thanh” mà từ nay còn phải ngâm mãi. Với một
bài thơ xuân như thế được phổ biến ra ngoài, thi sĩ Vũ-hoàng-Chương tránh sao
khỏi bị bắt vì tội phản động. Nhưng chưa hẳn như vậy.
Món quà chiêu dụ bất thành .
Hãy trở lại vài chục năm về trước, chúng ta được
biết thi sĩ Vũ sinh năm 1916. Hai chục năm sau vào thời điểm thi sĩ trưởng
thành thì phong trào thi ca lãng mạn nở rộ do ảnh hưởng của văn chương Pháp.
Cùng thời với Vũ-hoàng-Chương còn có rất nhiều văn nhân thi sĩ khác cùng nổi tiếng
trên văn thi đàn, trong đó có Huy-Cận (tên thật là Cù-huy-Cận) sinh năm 1919.
Huy-Cận cũng là một nhà thơ nổi tiếng, điển hình là bài “Ngậm ngùi” đã được phổ
nhạc mà chúng ta thường nghe. Huy-Cận kém Vũ-hoàng-Chương ba tuổi và xuất bản tập
thơ đầu “Lửa Thiêng” sau khi Vũ-hoàng-Chương đã có thi tập “Thơ say” và “Mây”
đang sắp phát hành. Vì thế Huy-Cận coi thisĩ Vũ như anh.
Hai người cũng chơi với nhau khá thân. Một hôm
Huy-Cận bất ngờ gặp Vũ-hoàng-Chương và rủ Ông đi ăn phở. Vì mới ra tập
thơ đầu lại cũng có ý thân mật so sánh nên Huy-Cận nửa đùa nửa thật vỗ vai
Vũ-hoàng-Chương nói rằng:
“Đã lâu lại gặp ‘chàng Say’
‘Lửa Thiêng’ xin đốt chờ ‘Mây’ xuống trần
Vũ-hoàng-Chương cũng hơi khựng một chút,
nhưng vui vẻ đáp ngay:
‘ Mây’ kia chẳng chịu xuống trần
Lửa ơi theo khói lên gần với
‘Mây’.
Hai người đối đáp với nhau như thế, vừa có ý
kiêu ngạo, vừa có ý thân thiện, thật xứng đôi. Rồi thời gian trôi qua, năm 1946
Huy-Cận ra bưng theo kháng chiến dùng thi tài của mình để phục vụ bác và đảng,
được sủng ái nên đã có thời leo lên đến chức Thứ trưởng bộ Văn hóa.
Vũ-hoàng-Chương thì chạy tản cư, cũng có làm một số bài thơ ái quốc, nhưng sau
đó hồi cư về lại Hanoi rồi di cư vào Saigon theo hiệp định Genève năm 1954, vẫn
tiếp tục nghiệp thơ và sinh sống bằng nghề dạy học.
Vật đổi sao dời, năm 1975 miền nam bị bỏ rơi
và cộng sản thắng đại cái “đại thắng muà xuân”.Và hai thi nhân lại có dịp gặp
nhau trong hoàn cảnh éo le quốc cộng. Huy-Cận được cử vào Saigon cùng với một
phái đoàn với mục đích thăm dò và chiêu dụ các văn nghệ sĩ miền Nam.
Dĩ nhiên người mà Huy-Cận muốn gặp đầu tiên là
Vũ-hoàng-Chương cũng vì tình bạn cũ và cũng nghĩ rằng nếu chiêu dụ được Vũ theo
cách mạng thì mình lập được công lớn. Vì vậy Huy-Cận đã sửa soạn cuộc thăm viếng
rất trọng thể. Lễ vật đến thăm Vũ-hoàng-Chương gồm một chai rượu quí, một lọ đầy
thuốc phiện và cũng không quên mang theo một bức hình Hồ chí Minh. Rượu và thuốc
thì để biếu bạn, còn bức hình thì Huy-Cận ước mong sẽ được Vũ-hoàng-Chương đề tặng
cho mấy vần ca ngợi để có bằng chứng báo cáo lấy công đầu.
Cuộc gặp gỡ diễn ra tốt đẹp sau bao năm xa
cách. Vũ-hoàng-Chương đón Huy-Cận như một bạn cố tri nồng nàn vui vẻ. Sau khi
Huy-Cận ngỏ ý muốn Vũ đề thơ thì Ông trầm mặc không nói gì. Huy-Cận khi ra về
có hẹn ba ngày sau sẽ cho người đến xin lại bức hình, Vũ-hoàng-Chương cũng chỉ ậm
ừ tiễn bạn.
Đúng ba ngày sau khi nhân viên của Huy-Cận tới
thì thấy trên bàn vẫn còn y nguyên hai món lễ vật và bức hình, Vũ-hoàng-Chương
không hề đụng tới mặc dù rượu với thuốc phiện đối với Ông là rất quí hiếm. Còn
bức hình thì vẫn chỉ là bức hình như khi đem tới,không một nét chữ đề. Được báo
cáo lại, dĩ nhiên là Huy-Cận tím mặt. Nhưng Ông biết tính họ Vũ là ngưòi không
dễ lung lạc nên cũng đành thôi.
Vũ-hoàng-Chương, ông qủa là một người có khí
phách. Ông có một cơ hội an thân nhưng Ông đã không làm, chỉ vì tấm lòng Ông “một
tấc thành” nên Ông phải giữ tiết tháo không a dua theo thời cuộc. Thế là lại có
thêm một cái ‘họa’. Nhưng như thế vẫn chưa hết.
Chê thơ Tố-Hữu và dạy cộng sản cách làm thơ.
Theo một bài đăng trên “net” của
tác giả Sông-Lô viết về Vũ-hoàng-Chương nhận xét thơ Tố-Hữu, được
biết phái đoàn từ bắc vô nam cùng với Huy-Cận như đã nói ở đoạn trên còn có nhiều
nhân vật sáng giá khác như Tố-Hữu, Hoài-Thanh, Xuân-Diệu, Vũ-đình-Liên….
Phái đoàn được ký giả nằm vùng Thanh-Nghị tiếp đón và tổ chức một đêm”họp mặt
văn nghệ” với các nhân vật gạo cội miền Nam để cùng đánh giá văn hoá hai miền
ngõ hầu thống nhất tư tưởng về một mối. Buổi họp này Vũ-hoàng-Chương đã được mời
và có tham dự. Đề tài được đưa ra là mấy câu thơ của Tố-Hữu đã làm để khóc
Stalin khi ông trùm đỏ Nga-sô này chết vào năm 1953. Hai câu thơ đã gắn
liền với cuộc đời và sự nghiệp cùng đầy đủ tiếng khen chê đối với tên
trùm văn nghệ cộng sản này là câu:
“Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười
“
Thanh-Nghị với tư cách nằm vùng theo cộng sản
từ lâu, coi như đại diện miền nam, dĩ nhiên ca ngợi thơ Tố-Hữu hết mình. Rồi lần
lượt đến Xuân-Diệu, Huy-Cận, Vũ-đình-Liên từ ngoài bắc vào lên diễn đàn thì khỏi
nói. Cũng cần có một tiếng nói miền nam cho xôm tụ, cho nên Hoài-Thanh khẩn khoản
mời Vũ-hoàng-Chương lên phát biểu với dụng ý là họ Vũ, một thi bá đương thời,
nhưng vốn người trầm mặc hiền hoà chắc cũng chỉ vuốt theo mà không nói điều gì
nghịch ý. Xin trích nguyên văn sau đây một đoạn của Sông-Lô:
“Ai đã biết Vũ-hoàng-Chương ắt phải biết cái đanh
thép bên trong tấm thân nhỏ bé ọp ẹp của ông. Đôi ba lần tạ từ không được, đành
nhảy vào ưỡn ngực “ hò kéo pháo”, nhưng trước khi vào cuộc họ Vũ đã yêu cầu cử
tọa thông cảm nếu có chỗ nào thất thố vì ông sợ rằng những gì ông muốn trình
bày sẽ làm tổn thương cái ‘sáng giá’ của đêm họp ‘văn nghệ đặc
biệt’ này, bởi vì ‘tất tần tật’ đã thẩm định rồi.”
Sau đây là lời của Vũ-hoàng-Chương;
“Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của
mình, để hồn trí phản ứng theo thất tình con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn
nên lời một tình tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần,
việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.
Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được ‘đóng
khung’ tự bao giờ trong tâm cảnh mình, Tố-Hữu đã xuất thần vận dụng nỗi u hoài,
phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường,
ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc rất tự nhiên, đạt
đến một mức độ điêu luyện cao. Lời thẩm định của Thanh-Nghị thật xác đáng,tôi
chịu. Nhưng thơ không phải chỉ có thế.Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật,
dù đã có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa
gọi là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt thật
sự. Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ
diễn nên lời. Tình tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ,nói
cho đến nơi, là ở đây, có nghiã là thơ phải thực.
Tố-Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng
một bà mẹ Việtnam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việtnam
yêu cụ Stalin thay cho mình. Cũng chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi
ca; nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việtnam có cùng tâm cảnh với mình không, có
chung một mối cảm xúc hay không?
Tôi biết chắc là không. Bởi
trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài ‘Đời đời nhớ Ông’ Tố-Hữu đã đặt
vào lời bà mẹ hai câu:
“Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin “
Chắc chắn là không có một bà mẹ Việtnam nào, kể cả
Bà Tố-Hữu, mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của
hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu sau ta đang mổ xẻ. Một
tình tự không chân thực, dù đươc luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến
đâu cũng không phải là thơ đẹp,thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm; đó chỉ là
thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành
nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi một tuyên
truyền nào đó. Tố-Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà
mẹ Việtnam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm“.
Vẫn theo lời kể của Sông-Lô thì lời thẩm
định này đã gây sôi nổi trong đám thính giả có mặt hôm đó. Muốn phản bác luận
điệu của Vũ-hoàng-Chương, có người đã yêu cầu Ông nói về thơ để hòng bắt bẻ này
nọ, nhưng Ông vẫn ôn tồn phát biểu:
“Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế,
nhưng mộng trên những tình tự thực. Không chấp nhận loại thơ tình tự hoang. Có
khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn
tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không
chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo; nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự
thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến
chân lý cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.
“Tôi xin nhắc ; sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của
thi ca; vì có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng
vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian,thời gian, chân lý cuộc
sống.”
Sau đêm hôm ấy, hình như có một buổi họp khẩn
cấp của các “nhân vật then chốt” cộng sản, và Vũ-hoàng-Chương đã bị bắt.
Như vậy cái tội phản động của thi sĩ họ Vũ không phải là một mà có đến ba : bắt
đầu từ bài thơ thời sự , kế đến không nể nang tình bạn và sau cùng là đã dạy
khôn cho kẻ đang thắng thế. Theo Sông-Lô thì Vũ-hoàng-Chương không phải là người
dại, cũng không phải người can đảm mà Ông chính là người của tự do không phải
quị lụy trước bất cứ một áp lực nào.
Niềm hãnh diện cuối đời : Thủ-tướng bưng bô.
Vũ-hoàng-Chương bị bắt vào khám Chí hòa, giam
chung cùng một số nhà trí thức khác. Với thân hình gầy yếu sẵn có, phải ăn cơm
tù đạm bạc lại thêm thiếu thuốc phiện thì làm sao mà Ông chịu nổi. Có thể nói
bao nhiêu ngày trong tù, Ông đau yếu cả bấy nhiêu ngày. Sức lực Ông kiệt quệ dần
dần, đã có lúc phải nằm liệt giường. Chính quyền “giải phóng” biết Ông không
còn sống nổi bao lâu, nên sau thời gian giam giữ đã quyết định thả Ông về để
tránh tiếng Ông bị bức tử trong tù. Về nhà gặp lại vợ con, dĩ nhiên là Ông mừng
rỡ, nhưng trong đáy lòng hình như Ông có điều gì thỏa mãn vì tuy nằm bẹp trên
giường Ông không có vẻ sầu héo bi lụy của một người gần đất xa trời. Một hôm
Ông thố lộ là ở trong tù Ông có phần thích thú vì đã được Thủ-tướng bưng bô vệ
sinh cho mình. Mãi sau người nhà Ông mới biết bị giam chung cùng với Ông là Bác
sĩ Phan-huy-Quát. Bác sĩ Quát đã có thời làm Thủ-tướng chính phủ dân sự do Cụ
Phan-khắc-Sửu là Quốc trưởng. Vì mến thương Vũ-hoàng-Chương và vì lương tâm của
người y sĩ, trong thời gian bị giam chung, Bác sĩ Quát đã tận tình chăm sóc cho
nhà thi sĩ bất hạnh đau yếu, và không ngần ngại giúp đỡ cả việc vệ sinh hàng
ngày. Đó là niềm vui cuối cùng của thi sĩ họ Vũ trước khi Ông lìa đời ngày 6
tháng 9 năm 1976.
Phạm-công Bạch,
CVA 57
No comments:
Post a Comment