THI
SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG: SÀI GÒN RONG CHƠI KÝ
Đoàn Thạch Hãn
Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2012
https://www.diendantheky.net/2012/01/thi-si-vu-hoang-chuong-sai-gon-rong.html
Trên phương diện học thuật, không ai có thể phủ nhận
Vũ Hoàng Chương là một trong những cây đại thụ của thi ca Việt Nam cận đại.
Theo nhận định của nhiều nhà phê bình văn học thuộc nhiều thế hệ, so với các
nhà thơ đồng thời, thơ Vũ Hoàng Chương có những nét riêng trau chuốt từng câu,
từng chữ, giàu nhạc điệu, nhẹ nhàng, sâu lắng, lãng mạn và sang trọng.
Vũ
Hoàng Chương
Ông sinh ngày 5/5/1916 tại làng Phù Ửng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng,
Nam Định (nay thuộc về Hưng Yên). Vũ Hoàng Chương đỗ tú tài Pháp năm 1937. Sau
đó, theo học Trường Luật rồi cử nhân toán tại Hà Nội, nhưng tất cả cũng chỉ được
một vài năm rồi bỏ, để theo nghề dạy học và làm thơ cho đến cuối đời. Năm 1954,
ông di cư vào Nam, tiếp tục dạy văn ở một số trường trung học, và Trường
Đại học Văn khoa Sài Gòn. Vũ Hoàng Chương mất ngày 6/9/1976, khi vừa tròn tuổi
60.
Tôi là một người may mắn, khi có một thời gian được tiếp xúc và gặp gỡ
thi sĩ Vũ Hoàng Chương dường như mỗi ngày. Đó là vào khoảng cuối năm 1973, đầu
năm 1974, khi vợ chồng ông đang tá túc tại nhà nữ sĩ Mộng Tuyết, trong một căn
phòng được ông gọi là “gác mây”, nằm cuối đường Nguyễn Minh Chiếu (nay là Nguyễn
Trọng Tuyển, quận Phú Nhuận).
Lúc bấy giờ, tôi đang giữ trang thơ của nhật báo Sóng Thần. Một buổi
sáng, vừa bước vào tòa soạn ở số 133 Võ Tánh (nay là Nguyễn Trãi), đã thấy nhà
văn Chu Tử (chủ bút) đang ngồi uống trà với Ngọc Thứ Lang (người dịch cuốn Bố
Già) và nhà thơ Hoàng Trúc Ly. Bỗng dưng có ai đó nhắc đến thi sĩ Vũ Hoàng
Chương và nói ông đang bệnh nặng. Thế là Ngọc Thứ Lang buột miệng: “Tội nghiệp,
Vũ Hoàng Chương nghèo kiết xác, nên thiếu “thóc” (thuốc phiện) là ngã bệnh, nếu
được hút đủ đô là khỏe ngay”.
Điều này có lẽ không sai, bởi hơn ai hết, Ngọc Thứ Lang cũng là một con
nghiện rất nặng và thỉnh thoảng vẫn ghé lại “gác mây” thù tạc với Vũ Hoàng
Chương. Không hỏi thêm một câu nào, ông Chu Tử quay sang ra lệnh cho tôi, xuống
ban Trị sự, lấy tiền mua vài lạng thuốc phiện đem biếu cho thi sĩ Vũ Hoàng
Chương. Nghe thế, tôi rất vui khi biết mình sắp được gặp gỡ nhà thơ lớn mà mình
ái mộ từ lâu, nhưng chỉ nghe danh chứ chưa được diện kiến lần nào. Có tiền, tôi
nhờ anh Ngọc Thứ Lang đưa qua con hẻm đối diện tòa soạn, nơi có hai động hút dường
như bán công khai, mua hai lạng thuốc phiện loại hảo hạng rồi đi ngay. Dọc đường,
tôi cứ phân vân không biết phải xưng hô với thi sĩ Vũ Hoàng Chương như thế nào
cho phải phép. Cuối cùng, tôi quyết định sẽ gọi ông bằng thầy và xưng em là ổn
nhất.
Không có gì khó khăn để tôi tìm ra nhà nữ sĩ Mộng Tuyết. Gọi là “gác
mây”, cái tên nghe rất thơ mộng, nhưng thật ra, đó là một căn phòng nhỏ, chỉ
hơn 20 thước vuông, không có lấy một thứ đồ đạc nào đáng giá. Trên một chiếc đi
văng bằng gỗ, được trải mấy tấm chiếu hoa, Vũ Hoàng Chương ngồi tựa lưng vào
vách, gầy gò và mệt mỏi. Trên khuôn mặt xanh xao là một cặp kiếng trắng dày cộm.
Trước mặt ông là một tờ báo và một chiếc kính lúp, mỗi khi đọc, ông phải soi từng
dòng. Ngồi trên chiếc ghế kê sát cửa ra vào là bà Thục Oanh, vợ của ông, một
người đàn bà với vẻ bên ngoài rất bình thường, nhưng lại có đời sống rất phi
thường.
Bởi lẽ, bà còn là chị ruột của thi sĩ Đinh Hùng. Suốt đời người đàn bà
này là chỗ dựa của hai nhà thơ lớn mà ngoài tánh khí thất thường ra, cả hai còn
là những con nghiện á phiện rất nặng từ khi còn rất trẻ, nhưng chẳng bao giờ
làm ra được nhiều tiền. Vì thế, mà bà Thục Oanh âm thầm chịu đựng cảnh túng thiếu,
cắn răng lo cho hai nhà thơ lớn của Việt Nam mà chẳng hề ta thán. Thấy tôi xuất
hiện, bà Thục Oanh đứng dậy chào khách và hỏi tôi muốn tìm ai? Tôi nói ngay:
“Ông Chu Tử nhờ em đem biếu cho thầy ít quà”. Tôi trở nên hụt hẫng khi nghe Vũ
Hoàng Chương nói, cho dù giọng ông chậm rãi và nhỏ nhẹ: “Chu Tử là ai? Hình như
tôi không quen người này, nhưng tại sao lại biếu quà cho tôi, mà quà gì
thế?”. Khi nghe tôi nói tới thuốc phiện, nét mặt ông rạng rỡ hẳn lên.
Tôi ngồi xuống mép đi văng, đặt hai lạng thuốc phiện lên tờ báo cũ mà
ông đang đọc dở. Như bị ma lực của nó thu hút, ông cầm lên, mở ra, vẻ thích thú
của một tay sành điệu: “Thuốc Thượng Lào, sản phẩm hảo hạng đây”. Thế là câu
chuyện giữa tôi và thi sĩ Vũ Hoàng Chương trở nên thân mật hơn. Ông nói, mỗi
ngày ông vẫn có thú vui đọc báo, nhưng chỉ đọc được một tờ, bởi không có đủ
báo. Tôi hứa, mỗi ngày sẽ mang đến cho ông đủ các loại nhật báo phát hành trong
ngày. Để cho ông yên lòng, tôi nói, mỗi ngày tôi thường đi ngang qua đây, nên rất
thuận đường. Nói thế là vì tôi mong được kết thân với ông, chứ chẳng có viếc gì
phải cần đến khu vực này cả. Ông nhận lời một cách vui vẻ, và từ đó, chiều nào
tôi cũng mang báo đến cho ông, rồi ngồi chuyện trò với nhau đủ mọi thứ chuyện
trên đời, rồi thành thân thiết.
Vài tuần sau, một lần Vũ Hoàng Chương bất chợt nhắc đến sức khỏe nhà
văn Chu Tử. Nhân đó, tôi hỏi, dường như ông và Chu Tử cũng quen nhau, nhưng giữa
hai người có điều gì đó lấn cấn? Ông thú thật là có quen biết. Nhưng do mâu thuẫn
gì đó với Chu Tử, nên thôi. Còn như Chu Tử có xúc phạm Vũ Hoàng Chương hay
không, cũng chẳng ai biết hư thực ra sao, bởi đó cũng chỉ là thị phi của người
đời.
Có những buổi chiều khi tôi đến thì bà Thục Oanh vắng nhà. Tôi tự pha
trà và ngồi đối ẩm với thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Tôi hỏi ông về chuyện tình yêu
và những bài thơ đau tình bất hủ của ông. Nét mặt ông trở nên buồn vời vợi, nói
như nói với chính mình: “Năm tôi 25 tuổi thì Tố Uyển đi lấy chồng, tôi đã như
điên, như cuồng. Người ta biết nhiều đến chuyện tình ly cách và những bài thơ
tôi làm cho Tố Uyển giai đoạn này, đặc biệt là hai câu mà nhiều người thuộc:
Tình
ta, ta tiếc cùng ta khóc -
Tố của Hoàng, nay Tố của ai…
Ông nói tiếp: Thật ra còn có một người phụ nữ nữa, cũng làm cho
tim tôi và thơ tôi rỉ máu, nhưng ít được người ta nhắc tới hơn:
Kiều
Thu hề! Tố em ơi
Ta đang lửa đốt tơi bời mái tây…
Tôi hỏi: “Thế còn cô Thục Oanh?”. Ông nói: “Đó là một người bạn đời,
người chia ngọt sẻ bùi, tuy không phải là người tình nhưng còn hơn cả người
tình”.
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương thường nói với tôi là ông không có bạn. Nhưng
theo tôi nhìn thấy thì ông sống rất tình nghĩa. Có lần ông hỏi tôi có thường gặp
Ngọc Thứ Lang không? Tôi nói rất thường gặp. Sáng nào cũng thấy anh ngồi ở quá
cà phê trước tòa soạn báo Sóng Thần. Dạo này trông anh rất yếu và hay đau ốm.
Thế là chẳng nói, chẳng rằng, ông lấy trên đầu nằm ra một cục thuốc phiện, cắt
làm đôi, gói cẩn thận bằng một mảnh giấy kiếng màu cam, rồi trao cho tôi, dặn
dò: “Đưa cho Ngọc Thứ Lang và đừng nói gì cả”.
Một buổi chiều khác, tôi gặp Lê Cung Bắc (nay là đạo diễn - NSƯT Lê
Cung Bắc) tại tòa soạn, và rủ anh ghé Vũ Hoàng Chương chơi. Lê Cung Bắc nhận lời
ngay, bởi anh cũng là người yêu thơ và rất ái mộ thơ Vũ Hoàng Chương. Đó là một
buổi gặp gỡ hết sức thú vị.
Trước khi theo tây học, Vũ Hoàng Chương từng học chữ Nho nhiều năm, thuộc
loại uyên bác. Còn Lê Cung Bắc lại xuất thân trong một gia đình khoa bảng, mấy
đời ông cha liên tục đỗ đầu các đại khoa dưới triều Nguyễn. Do đó, anh cũng rất
tinh thông Tứ Thư, Ngũ Kinh,… từ hồi còn rất trẻ. Đặc biệt, Lê Cung Bắc thuộc
làu rất nhiều bài Đường thi, và cả những bài từ, bài phú. Thế là một già, một
trẻ, hết đọc rồi bình thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, đến Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu… say sưa
cho đến sẩm tối. Vũ Hoàng Chương nói, ông tuy đã già nhưng tâm hồn còn rất trẻ,
nên rất thích chuyện trò với những người bạn trẻ có được kiến thức như Bắc.
Ông dặn tôi, thỉnh thoảng nhớ rủ Lê Cung Bắc đến thăm ông, để chuyện
trò cho đỡ buồn. Khi chia tay, ông rời đi văng bước ra cửa tiễn chúng tôi bằng
những bước đi không vững, để bày tỏ lòng mến khách. Ông nói: “Lâu lắm không bước
ra đường, chẳng biết phố xá dạo này ra sao?”. Lê Cung Bắc trả lời: “Phố xá thì
vẫn thế. Có điều, càng ngày các cuộc xuống đường của những lực lựơng tranh đấu
càng nhiều hơn. Ngựa sắt, hàng rào kẽm gai và khẩu hiệu, biểu ngữ xuất hiện khắp
nơi”. Ông lại hỏi: “Người ta viết gì trên đó?”. Tôi đáp: “Thì đại loại chế độ của
Tổng thống Thiệu muôn năm, hoan hô cái này, đả đảo cái kia”. Lập tức thi sĩ Vũ
Hoàng Chương ứng khẩu, đọc liền hai câu:
Thế mà
cứ chúc muôn năm mãi
Nó sống lâu thì nước chết non.
Ra đầu đường, Lê Cung Bắc nói với tôi, quả thật, nếu cứ nhìn vào cái
thân xác gầy còm, yếu ớt đó, không ai ngờ tiềm ẩn trong tim là ngữ khí ngất trời.
Điều làm tôi cảm động nhất, là vào một buổi chiều cuối năm 1974, khi
tôi đến với ông như thường lệ đã thấy trước mặt ông là một tập sách mỏng. Ông cầm
lên đưa cho tôi và nói: “Đây là quà của tôi biếu anh, một trong những người rất
hiếm hoi mà tôi quý mến”. Tôi lật ra, cứ tưởng như mơ. Đó là một tập thơ của Vũ
Hoàng Chương, do chính ông viết bằng đầu tăm, chấm mực tàu viết lên giấy bổi. Tập
thơ có cái tựa là Song Kiều, ngoài bìa Vũ Hoàng Chương viết tặng đích danh tôi,
có chữ ký và triện son hẳn hoi, nhưng chỉ dày hơn 20 trang, mỗi trang có 4 câu
lục bát, vì nét chữ rất to. Dĩ nhiên là tôi vô cùng sung sướng. Cái công mỗi
ngày tôi vẫn mang báo đến tặng ông rõ ràng không bỏ.
Đầu năm 1975, khi chuyển nhà đi nơi khác, vì không ổn định chỗ ở, tôi
đã mang tập thơ quý giá, với chỉ một ấn bản duy nhất đó, cùng một ít tư liệu
riêng, gởi gắm cho nhà thơ Huy Tưởng trên đường Huỳnh Tịnh Của. Về sau tôi hỏi,
thì Huy Tưởng nói đã nhiều lần cố lục tìm trong đống sách vở và đồ đạc lỉnh kỉnh
trong nhà anh, nhưng chẳng biết thất lạc ở đâu. Thế là mất!
Một thời gian sau, thi sĩ Vũ Hoàng Chương rời khỏi “gác mây”, dọn về
Vĩnh Hội. Từ đó, cho đến lúc ông qua đời vào năm 1976, vì bộn bề công việc, tôi
không đến với ông được nữa. Ngay cả khi ông nhắm mắt, tôi lại ở thật
xa thành phố, nên cũng không thể đến thắp cho ông một nén nhang như lòng tôi
mong ước.
Tôi nghĩ, cho dù quá nhiều thăng trầm ở đời này, hạnh phúc thì ít, khổ
đau thì nhiều, nhưng có lẽ thi sĩ Vũ Hoàng Chương cũng đã mỉm cười ra đi bởi
ông đã thấm đẫm tinh thần Phật giáo như lời thơ ông:
Biển khổ
mênh mông sóng ngập trời
Khách trần chèo một mái thuyền chơi
Thuyền ai ngược sóng, ai xuôi sóng
Cũng chỉ trong cùng biển khổ thôi.
Bình Trưng Đông, tháng Chạp – năm Tân Mão
Đoàn Thạch Hãn
Đăng ngày Chủ Nhật, tháng 1 29, 2012
No comments:
Post a Comment