POSTED ON MARCH 24, 2022
https://dcvonline.net/2022/03/24/van-quang-1933-2022/
Dường như khi cảm xúc quá đầy, người ta không
thể làm gì được ngoài việc cứ để cho nó tuôn trào lênh láng như ngồi dưới cơn
mưa. Không nghĩ ngợi gì cả, không làm gì cả, cứ ngửa mặt lên cho mưa đầy mặt,
thế thôi! Đúng là chuyện của người thì nhanh mà chuyện của mình thì nghẹn. Mãi
đến hôm nay tôi mới ghi lại được những dòng chữ này, nhưng tôi cho rằng chẳng
bao giờ muộn vì nó là thứ chuyện của cả một đời hay là của muôn đời.
Nhà văn Văn Quang: ảnh và tranh vẽ chân dung
Nhà văn Văn Quang tên thật là
Nguyễn Quang Tuyến, sinh năm 1933 tại Thái Bình.
1953, gia nhập Quân Đội Quốc Gia, phục vụ trong
những đơn vị tác chiến tại miền Bắc trước hiệp định Geneve năm 1954.
1957, sang ngành Tâm Lý Chiến, Trưởng
Phòng Báo Chí Quân Đội thuộc Cục Tâm Lý Chiến, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị
QLVNCH và là Trưởng Ban Biên Tập của các tờ báo Quân Đội VNCH.
Từ năm 1969 cho đến 30/4/1075, là Trung
Tá Quản Đốc đài Phát Thanh Quân Đội.
Tác phẩm đầu tay: Tiếng Tơ Lòng, đăng
trên nhật báo Than Dân, Hà Nội cuối năm 1953
Tác phẩm thứ nhì: tập truyện ngắn Thùy
Dương Trang do Lạc Việt xuất bản tại Sài Gòn năm 1957.
1957-1975: ông cộng tác với nhiều tờ báo ở
Sài Gòn như Ngôn Luận, Chính Luận, Tiếng Chuông, Tin Sớm, Tiếng Vang, Kịch Ảnh,
Truyện Phim, Điện Ảnh, Văn Nghệ, Tiền Phong, Bách Khoa, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Tiểu
Thuyết Tuần San…
Trong 18 năm, Văn Quang hoàn thành hơn 50 tác
phẩm in trên báo và có 28 tác phẩm đã xuất bản. Tác phẩm của ông hầu hết là
truyện dài như Nét Môi Cuồng Vọng, Nguyệt Áo Đỏ, Người
yêu Của Lính…
1963-1973: 4 tác phẩm của Văn
Quang được chuyển thành phim là Ngàn Năm Mây Bay, Chân
Trời Tím, Đời Chưa Trang Điểm, Tiếng Hát Học Trò.
https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2022/03/nghinnammaybay.jpg
Ngàn năm mây bay (1963)
do hãng phim Thái Lai thực hiện; Hoàng Anh Tuấn đạo diễn. Phóng viên
quân đội Phạm Huấn thủ vai chính.
Tiếng hát học trò do
(1970) hãng Alpha thực hiện; Thái Thúc Nha đạo diễn; Thanh Lan thủ vai
chính.
https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2022/03/chantroitim.jpg
Chân trời tím (1971) do hãng Liên Ảnh sản xuất, Lê Hoàng Hoa đạo
diễn. Hai vai chính do Hùng Cường và Kim Vui thủ diễn. Nhạc trong phim là
bài “Nửa hồn thương đau”của Phạm Đình Chương do Thái Thanh hát. Nhạc sĩ
Trần Thiện Thanh đã lấy nguồn cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết “Chân trời tím” để
sáng tác nhạc phẩm cùng tên.
Đời chưa trang điểm (1973) do hãng hãng phim Lam Sơn của Bùi Sơn Duân sản xuất. Hoàng
Vĩnh Lộc đạo diễn.
Tác phẩm của Văn Quang có thể chia thành
4 đề tài: mô tả cuộc sống tuổi trẻ, phản ảnh đời sống quân ngũ, phản ảnh thực đời
sống thời chiến và những châm biếm những lề lói thời thượng lố lăng thuộc nhiều
lãnh vực sinh hoạt, đặc biệt là các giới làm nghệ thuật.
Sau 30/4/1975, Văn Quang bị tù hơn 12
năm ở nhiều trại giam từ Nam ra Bắc.
Tháng 9 năm 1987, ra khỏi trại tù, Văn Quang trở về Sài Gòn, không đi Mỹ theo
chương trình HO.
Năm 1990, ông trở lại với việc sáng tác văn
nghệ và Ngã Tư Hoàng Hôn là tác phẩm đầu tiên sau 1975.
Từ năm 1992 Văn Quang cộng tác viên thường
xuyên với nhiều tờ báo Việt ngữ tại hải ngoại như báo Chiêu Dương tại
Autralia, báo Người Việt, Thời Luận tại Nam California và Tiếng Vang tại
Sacramento… Thỉnh thoảng, độc giả được đọc một vài bài viết của Văn Quang trên
nhật báo Việt Mercury (San Jose);
Năm 2009 ông được tạp chí Khởi Hành ở
California trao tặng “Giải Văn chương Toàn Sự nghiệp Khởi Hành 2009″.
https://essczktscto.exactdn.com/wp-content/uploads/2022/03/Pic-04-VQ.jpg?strip=all&lossy=1&ssl=1
Nhà văn Văn Quang, những ngày cuối đời. Nguồn:
https://t-van.net/
Ông qua đời ngày thứ Ba 15 tháng 3 năm 2022, tại
tư thất đường Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn, hưởng thọ 90 tuổi.
TÁC
PHẨM
Tiếng Tơ Lòng (1953)
Hoàng Hoa Thám: Bài Học Xương Máu Của 25 Năm Đấu Tranh (1957)
Thùy Dương Trang (Tiểu thuyết 1957)
Những Lá Thư Màu Xanh (Tiểu thuyết 1963)
Tiếng Hát Học Trò (Tiểu thuyết 1963)
Nghìn Năm Mây Bay Tâm Sự Người Yêu (Tiểu thuyết 1963)
Nguyệt Áo Đỏ (Tiểu thuyết 1963)
Đời Chưa Trang Điểm (Tiểu thuyết 1964)
Từ Biệt Bóng Đêm (Tiểu thuyết 1964)
Nét Môi Cuồng Vọng (Tiểu thuyết 1964)
Chân Trời Tím (Tiểu thuyết 1964)
Những Tâm Hồn Nổi Loạn (Tiểu thuyết 1964)
Những Người Con Gái Đáng Yêu (Tiểu thuyết 1964)
Tâm Sự Người Yêu (Tiểu thuyết 1964)
Vì Sao Cô Độc (Tiểu thuyết 1965)
Những Kẻ Ngoại Tình (Tiểu thuyết 1965)
Người Yêu Của Lính (Tiểu thuyết 1965)
Đường Vào Bến Mê (Tiểu thuyết 1966)
Những Bước Đi Hoang (Tiểu thuyết 1966)
Tiếng Cười Thiếu Phụ (Tiểu thuyết 1966)
Tiếng Gọi Của Đêm Tối (Tiểu thuyết 1966)
Người Lính Hào Hoa (Tiểu thuyết 1966)
Quê Hương Rã Rời (Tập Truyện 1969)
Những Ngày Hoa Mộng (Phóng sự tiểu thuyết 1970)
Sài Gòn Tốc (Phóng sự tiểu thuyết 1970)
Trong Cơn Mê Này (Tiểu thuyết 1970)
Soi Bóng Cuộc Tình (Tiểu thuyết 1992)
Một Người Đàn Bà Những Người Đàn Ông (Tiểu thuyết 1998)
Sài Gòn Cali 25 Năm Gặp Lại (Ký sự 2000)
Ngã Tư Hoàng Hôn (Phóng sự tiểu thuyết 2001)
Lên Đời Tập 1 (Phóng sự tiểu thuyết 2001)
Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự (Ký sự 2002)
Lên Đời Tập 2 (Phóng sự tiểu thuyết 2005)
Nguồn: Văn
Quang, wikipedia.org
Sau đây là một truyện ngắn ông viết về hình ảnh
trong trại tù.
C Á I M U Ỗ N G
Văn Quang
Trại tù do Chính phủ
Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam lập ra. Những tù nhân, thành viên của
chính phủ VNCH được trả lại quyền công dân sau khi mãn hạn tù. Đây là trại dành
cho các sĩ quan quân đội VNCH ở tỉnh Tây Ninh, miền Nam Việt Nam. Tháng 6 năm
1976. (Ảnh của: Sovfoto / Universal Images Group via Getty Images)
Tôi không nhớ rõ năm đó là năm thứ mấy chúng
tôi “học tập cải tạo”, chỉ biết rằng đã có những người “quen” với những ngày
tháng cực khổ, dài lê thê trong những căn nhà giam được “xây dựng” bằng đủ thứ
kiểu giữa những vùng rừng núi âm u. Ở Sơn La thì “trại” được làm trên những nhà
tù từ thời xa xưa, chỉ còn lại những cái nền nhà lỗ chỗ, người ta dựng vách đất
trộn rơm, mái lợp bằng các kiểu lá rừng, miễn sao che kín được khung trời.
Nơi này xưa kia, Pháp dùng để giam giữ tù
chính trị, rồi một thời gian sau, VN giam những người tù Thái Lan và trong chiến
tranh đã có khi người ta dùng làm “công binh xưởng” chế tạo lựu đạn. Vì thế nên
thỉnh thoảng chúng tôi nhặt được một cái vỏ lựu đạn ở đâu đó quanh khu vực này.
Ở Vĩnh Phú thì nhà tranh vách đất, ngoại trừ một khu người ta gọi là khu “biệt
kích” gồm vài căn nhà “xây dựng kiên cố” bằng gạch lợp tôn xi măng. Chúng tôi
“được học tập cải tạo” trong dãy nhà này. Cũng nghe người ta nói lại là khu này
trước kia dùng để giam giữ những người lính biệt kích đã từng nhảy dù ra Bắc rồi
bị bắt giam ở những khu đặc biệt đó. Muốn vào khu này phải qua hai lần cổng có
tường gạch bao quanh. Nhưng có lẽ khi giam giữ biệt kích thì khác, còn khi
chúng tôi “được giam” ở đây có vẻ như “cởi mở” hơn vì những cánh cổng thường
không đóng bao giờ. Họ để cho chúng tôi đi lao động hàng ngày cho khỏi phải mở
ra mở vào.
Cuộc sống dù cực khổ đến đâu, sống mãi rồi người
ta cũng phải quen. Nhịp sống hàng ngày cứ thế trôi đi dù là trong đói rét, thiếu
thốn và trong những cấm đoán vô cùng khe khắt. Nhà tù nào chẳng thế, nó có những
quy luật và quy định riêng. Những ngày đầu người ta cấm luôn cả trà, cà phê, thậm
chí cấm cả đeo kính cận. Nhưng sau này nới dần, những thứ như thế không bị cấm
nữa. Chỉ còn những thứ đã thành “luật” thì luôn bị cấm và cấm ở bất cứ đâu. Cấm
“mua bán đổi chác linh tinh”, cấm dùng thức ăn lâu ngày bằng bột, cấm tỏi và cấm
tất cả những dụng cụ sinh hoạt bằng sắt như dao, kéo, muỗng nĩa… Tuy vậy có anh
tù nào lại ngây thơ ngoan ngoãn đến nỗi tuân theo hoàn toàn những quy định ấy.
Mua bán đổi chác linh tinh vẫn cứ diễn ra, dao kéo vẫn cứ được lén lút xử dụng
hàng ngày nhưng đó là những thứ đã được “cải biên” thành dao kéo mini nhỏ nhắn
cho dễ cất giấu. Nó là những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày, dù có bị
bắt thì cũng chỉ bị tịch thu chứ không đến nỗi bị cùm một hoặc hai chân –tùy
theo tội– đưa vào “thiên lao” tức là thứ phòng giam đặc biệt trong trại tù.
II.
Ngày qua ngày, cái “không khí êm ả” của trại
giam trở nên phẳng lặng nhưng dĩ nhiên là không thể nào nói rằng đó là thứ “an
tâm, hồ hởi phấn khởi” mà bất kỳ anh “trại viên” nào cũng cứ phải viết khi phải
làm những “bản kiểm điểm”, mặc dù kể cả người viết và người đọc đều chẳng ai
tin.
Nhưng cái không khí ấy đôi khi bỗng nhiên bị
xáo trộn. Vào một buổi sáng tinh mơ, khi chúng tôi đang ngồi ở cái sân đất giữa
trại, chuẩn bị gọi tên từng đội đi lao động để “một ngày lại vinh quang như mọi
ngày” thì bỗng đâu toán lính gác trại tù sồng sộc chạy vào. Họ chạy rầm rập như
ra trận, súng ống chĩa về phía “quân thù”, mặt mũi “khẩn trương” rõ rệt. Họ sộc
thẳng vào phòng giam trống hốc cứ làm như có địch ẩn nấp đâu trong đó.
Chúng tôi ngẩn ngơ đứng nhìn, không hiểu họ giở
trò gì. Có những khuôn mặt lo lắng, một nỗi lo bâng quơ. Chuyển trại hay có một
ai đó trốn trại? Chưa biết. Toán lính lục tung hết mọi thứ đồ đạc ít ỏi mà mỗi
người tù có được trong gói hành trang của riêng mình. Sau đó chừng nửa giờ, một
vài gói đồ bị tịch thu được vác lên “phòng thi đua”. Lúc đó thì chúng tôi mới
hiểu rằng đó chỉ là một kiểu khám phòng để tìm ra những thứ đồ “quốc cấm” của
trại đã quy định.
Thật ra, đó cũng là cái cung cách mà ở những
“trại cải tạo” thường dùng để khuấy động cái không khí trầm lặng dễ phát sinh
ra những “tiêu cực”. Bởi trong cái sự yên bình của một trại giam, người tù có
thể liên kết với nhau làm một chuyện gì đó như tổ chức trốn trại hoặc có thể có
những vụ xúi giục “tuyệt thực”, bàn bạc chống đối… Và nếu nói đến sự chống đối
thì có hàng trăm thứ để có thể chống đối được. Thí dụ sự ăn đói, sự đối xử bất
công, sự oan ức vô lý, sự trù dập của một vài anh “quản giáo”, sự hỗn hào của mấy
anh lính võ trang. Chuyện gì cũng có thể chống đối được. Vì thế thỉnh thoảng họ
phải làm cho cái không khí đó mất hẳn cái vẻ trầm lặng để chứng tỏ lúc nào họ
cũng đề phòng, lúc nào họ cũng “đề cao cảnh giác”, lúc nào họ cũng sẵn sàng đối
phó với mọi “mưu đồ”.
Các anh tù đừng có tưởng bở, chẳng bao giờ yên
đâu. Cứ sau mỗi lần như thế, chắc chắn thế nào họ chẳng vớ được một anh nào đó
giấu những thứ vớ vẩn như dao kéo, thư từ, sách vở tiếng nước ngoài, tiền bạc,
đồ dùng ngoài quy định. Tất nhiên sẽ có những cuộc “kiểm điểm, phê bình” mà
chúng tôi gọi là những “buổi tối ngồi đồng” để từ đó hy vọng lòi ra một vài cái
“tội”. Đội nào khôn ngoan thì cứ ngồi im, ai “phê” thì cứ mặc, còn cãi là còn
“ngồi đồng”. Đi làm suốt một ngày mệt mỏi đến thở không ra, tối về còn ngồi đồng,
còn “phê bình” còn “kiểm thảo” thì chịu sao nổi. Nay “làm chưa xong” thì mai lại
ngồi tiếp, ngồi cho đến khi nào tìm ra tội mới thôi. Tội nặng, tội nhẹ tùy theo
tình hình của từng thời điểm.
Thời điểm “căng” thì vào nhà kỷ luật đặc biệt
nằm “treo một chân”, thời điểm nhẹ nhàng thì cảnh cáo, ghi tội vào biên bản. Và
họ sẽ có những biện pháp an toàn như chuyển đổi năm bẩy anh từ đội này sang đội
khác để phòng tránh những chuyện thông đồng, những tổ chức, những phe nhóm có
thể gây nguy hại đến an ninh của trại tù.
Chung quy đó chỉ là một cách đào xới tung cái
tinh thần “tưởng rằng yên ổn” của mấy anh “trại viên” còn tỏ ra cứng đầu, còn
có mưu toan lôi kéo người này người kia vào trong phe mình để từ đó có những
yêu sách hoặc toan tính bất lợi cho trại tù. Quả là mỗi lần như thế trại tù
cũng rối tung lên và làm cho những anh yếu bóng vía thường phải sống dựa vào
tinh thần bè bạn càng thêm rụt rè, chẳng biết tin vào ai được nữa. Nhưng riết rồi
trò gì cũng thành quen và đối với một số người “chẳng có gì để mất” thì họ trơ
như đá, muốn làm gì thì làm, chỉ có cái thân tù đói này thôi, sống cũng được mà
chết cũng chẳng sao.
Có lẽ tôi cũng đã học tập được cái tinh thần ấy
của những anh bạn trẻ, bởi tôi cũng chẳng có gì để mất. Vợ con nhà cửa đều đã mất
tất cả rồi, chẳng có gì phải lo. Đôi khi tôi sống tưng tưng, ông anh rể ở
Sàigòn gửi cho cái gì thì nhận cái nấy. Và một sự thật không thể quên là nếu
không có ông anh rể tốt bụng đó thì tôi cũng đã trở thành một thứ “caritas” như
một số anh em ở trong trại tù rồi. Tức là những người chẳng có ai thăm nuôi.
Những bà vợ đau khổ với những gia đình đói
rách lầm than, họ lo cho chính họ còn không xong thì lấy gì đi “thăm nuôi” người
ở trong tù mà lại tù ở tuốt tận miền Bắc xa tít mù tắp. Thậm chí có người còn
vui mừng khi thấy vợ mình bước đi bước nữa với một anh nào đó đưa các con ra được
nước ngoài. Tôi nói thế để chứng minh rằng không nên trách cứ bất kỳ một ai
trong hoàn cảnh cay nghiệt này. Theo tôi thì những anh “mồ côi” không ai thăm
nuôi trong trại tù mới chính là những anh hưởng trọn vẹn được cái “thú đau
thương”.
III.
Trở lại chuyện buổi sáng tinh mơ, khi toán
lính chạy sồng sộc vào trại. Đó là một buổi sáng cuối mùa đông, trước Tết âm lịch
chừng vài ngày. Đây cũng là biện pháp an ninh thông thường của các trại tù trước
những ngày lễ tết lớn. Tôi thảnh thơi theo đội đi làm ở ngoài đồng. Tôi vẫn cứ
yên trí rằng chẳng có gì để mất, chẳng có gì quan trọng.
Vào mùa đông cái thứ quan trọng nhất chỉ là
rau. Mùa này thiếu rau đến… khô quắt cả dạ dày, rau muống bầu bí không trồng được,
chỉ còn rau cải và trồng cải thì lâu ăn và năng suất không cao, cho nên có được
tí rau là hạnh phúc nhất. Tôi ngồi lê la trước mấy luống su hào, đó là thứ “thực
phẩm cao cấp” nhất trong khu vườn rau của toàn đội. Những củ su hào bắt đầu to
hơn nắm tay nằm tròn trĩnh dưới những tàu lá xanh mượt mà, tôi trông coi chúng
vì cái công sức tôi bỏ ra hơn một tháng trời. Tôi coi chúng cũng như một tác phẩm
nào đó mà tôi đã từng viết ra, ở đây không có gì để coi như tác phẩm thì coi nó
là tác phẩm vậy, để có cái mà thú vị và để có cái mà quên đi những thứ quanh
mình.
Cứ như thế tôi tha hồ đặt tên từng luống su
hào, có khi là một cái tên nghe có vẻ “lả lướt” như tôi đã gặp ở phòng trà tiệm
khiêu vũ, có khi là một cái tên rất dung tục. Âu cũng là một trò “nghịch ngầm”
giữa vùng rừng núi âm u, hầu như không có mặt trời mùa đông này. Nhưng tôi biết
rằng trò chơi của tôi sẽ phải chấm dứt trong một hai ngày nữa. Bởi Tết đã đến,
dù 12 luống su hào còn non chưa đến ngày “thu hoạch” nhưng cần thức ăn trong ba
ngày Tết nên họ sẽ nhổ. Nếu tù không ăn thì cai tù ăn, chứ không đời nào họ chịu
để đến mùa xuân. Nhưng vui chơi được giờ nào hay giờ ấy trong cuộc sống phù du
này.
Buổi trưa về đến trại, trong khi bạn bè xung
quanh đang xôn xao, kẻ bị tịch thu cái này, người bị mất cái kia thì tôi vẫn nhởn
nhơ vì tôi chẳng có gì để mất. Tôi xách tô đi lấy cơm, gọi là phần cơm, nhưng
thật ra chỉ có đúng một bát bo bo tương đối khá đầy đặn. Tôi ăn thì tạm lưng lửng,
nhưng những người bạn tôi thì không bao giờ đủ. Họ thường nói “Vừa ăn xong mà vẫn
cứ tưởng như mình chưa ăn”. Cái đói cứ lửng lơ mãi ngày này qua ngày khác, thế
mới là khó chịu. Có những ông bạn tôi ăn theo cái kiểu câu dầm, tức là lấy cái
muỗng tre nhỏ xíu, hoặc một cái gì đó lớn hơn cái đầu đũa, múc từng muỗng ăn rả
rích suốt ngày để có cảm tưởng lúc nào cũng được ăn, nó làm lu mờ cái cảm giác
đói, đó là cách tự đánh lừa mình.
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/a/ab/Guigoz-bo%C3%AEte-b.JPG
Lon sữa Guigoz. Nguồn: https://commons.wikimedia.org/
Tôi cũng “ăn dè hà tiện” nhưng tôi ăn bằng muỗng.
Cái muỗng rất đặc biệt bằng inox hẳn hoi, có chạm trổ tinh vi và luôn được chùi
rửa sáng bóng. Nhưng sáng nay, được chia hai củ khoai lang ăn sáng nên tôi để
cái muỗng ở nhà. Tôi thường cất nó vào trong chiếc lon Guigoz – một loại vỏ hộp
sữa được chế biến thành đồ dùng rất thông dụng và nhiều lợi ích của hầu hết những
anh tù, nó có thể dùng “trăm công ngàn việc” từ đựng các loại thức ăn, thức uống
đến đun nấu, câu móc, đựng mắm muối, chứa đồ để dành, tắm rửa đánh răng, rửa mặt.
Nhưng hôm nay thì cái muỗng biến mất, tất nhiên là nó đã bị tịch thu trong buổi
khám xét trại sáng nay.
Đây là thứ “gia bảo” tôi đã cất giấu nó suốt mấy
năm nay chưa hề lơi lỏng. Nó luôn nằm sát bên tôi, lúc đi lao động cũng như khi
nằm ngủ. Có thể ví như cái nạng của một anh què, cái gậy của ông lão chín mươi,
một thứ đã thành thói quen bám vào cuộc sống.
Sau một buổi trưa mưu toan tính kế, chiều hôm
đó tôi quyết định đến gặp Dực, anh chàng trưởng ban thi đua của trại. Dực cũng
chỉ là một “trại viên”, nhưng trước đây anh ta là cán bộ, “thoái hóa tiêu cực”
sao đó nên bị đi tù. Những anh cán bộ và quân nhân trong trại tù thường được gọi
là “phạm binh phạm cán” tức là tội phạm thuộc binh sĩ hoặc cán bộ cũ. Họ có một
chế độ đãi ngộ riêng và thường được dùng vào trong các công việc cần đến sự tin
cậy của giám thị.
Bữa khai lý lịch, thấy tôi khai là dân huyện Quỳnh
Côi, tỉnh Thái Bình, Dực liền hỏi quê quán và nhận là người cùng quê. Một lần Dực
dẫn chúng tôi đi lấy quần áo ngoài trại chính, qua khoảng đồi núi quanh co, anh
ta chỉ tay lên mảng cây cối thưa thớt, nói với tôi rằng “cậu huyện Nhụ nằm ở
đó”.
Tôi hỏi anh có họ hàng thế nào với ông Huyện
Nhụ, anh ta nói là cháu gọi ông Nhụ bằng cậu, nhưng gia đình cụ Nhụ vào Nam còn
gia đình anh vốn là nông dân nên ở lại miền Bắc.
Cụ Nguyễn Mạnh Nhụ trước năm 75 làm chánh án ở
tòa án Sài Gòn và tôi nghe nói là cũng có họ hàng với gia đình tôi, nhưng là họ
xa. Cụ làm tri huyện từ khi còn rất trẻ. Sau này tôi có gặp cụ vài lần. Tôi kể
cho Dực nghe đôi ba chuyện về cuộc sống của cụ huyện Nhụ khi còn ở Sài Gòn. Sau
này đi “cải tạo” cụ mất ở trại này. Dực nói là trước khi cụ chết, cụ chỉ thèm
được ăn một cái bánh dò. Dực nhắn người nhà ở Thái Bình khi đi thăm nuôi thì
ghé qua Hà Nội mua lên vài cái, nhưng khi bánh dò mang lên thì cụ mất rồi.
Từ đó, đối với tôi, Dực có phần dễ chịu hơn.
Nhưng dĩ nhiên cái khoảng cách giữa một bên là “ngụy” một bên là “cán” thì khó
mà san lấp được…
Nhưng hôm nay thì tôi cần đến hắn. Suốt buổi
trưa tôi không gặp được Dực. Cho đến hai hôm sau, khi trại đã xôn xao chuẩn bị
cho những ngày Tết tôi mới gặp được Dực. Trong khi đó tôi dò hỏi mấy tay làm
văn hóa xem những thứ bị tịch thu còn để trong phòng thi đua không. Họ nói còn
để trong kho lẫn lộn với những thứ đồ dùng khác. Tôi mang cho Dực một ít thuốc
đau dạ dày của ông anh tôi gửi vào. Rất may cho tôi là hắn cũng bị đau dạ dày.
Mà cái thứ thuốc trị bệnh dạ dày ở miền Bắc hồi đó chỉ là tí mật ong trộn với
nghệ nên không công hiệu. Tôi có thứ thuốc “cao cấp” hơn là Maalox, uống vào là
cơn đau dịu xuống ngay. Thuốc Mỹ đàng hoàng, người ta ghét Mỹ nhưng thuốc của
nó tốt thì cứ thích, có sao đâu.
Tôi gạ chuyện để xin lại cái muỗng. Dực trợn mắt:
– “Anh làm cái gì mà cần cái muỗng đến thế?
Bây giờ để trong kho, chui vào đấy mà trực trại nó biết thì tôi vào nhà đá.”
Tôi nằn nì:
– “Đấy là đồ gia bảo của tôi đấy. Anh biết
không, tôi mất nhiều thứ lắm, một cái bằng lái xe ba dấu, một cuốn tự điển. Nhưng
tôi không cần, chỉ cần cái muỗng thôi.”
Dực nhìn tôi nghi ngại:
– “Hay là mày giấu tiền trong đó?”
Dực hơn tôi hai tuổi nên hắn có gọi tôi bằng
mày tôi cũng không tự ái, mà dù hắn có kém tôi vài ba tuổi mà lúc đó gọi tôi bằng
mày tôi cũng cho qua luôn.
– “Cái muỗng đặc và nhỏ như thế làm sao giấu
tiền được?”
Dực nửa đùa nửa thật:
– “Bọn mày thì lắm trò lắm, cái gì chúng mày
chẳng làm được. Chưa biết chừng mày giấu cả cái máy quay phim trong đó cũng nên.
Tao nghe nói mày có sách làm phim phải không?”
– “Đúng, nhưng là tôi viết truyện rồi người ta
lấy làm phim chứ tôi biết cái cóc khô gì.”
– “Vậy sao mày chỉ đòi lấy cái muỗng, mày mua
chuộc tao bằng hai vỉ thuốc đau dạ dầy, không bõ. Khéo không chết cả đám. Tao
không chơi.”
Tôi thất bại, nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc.
Chiều hôm đó, Dực lại được lệnh phải làm một cái phòng đọc sách vào dịp Tết.
Tôi đang loay hoay dán mấy cành hoa đào lên tấm phông trên hội trường thì Dực
kéo tôi xuống. Nó bảo tôi đi khuân sách trên thư viện về hội trường, kê bàn ghế,
trang trí thành khu đọc sách báo trong ba ngày Tết cho ra vẻ “có văn hóa”.
Nhưng nếu coi thư viện thì không được ăn tết ở phòng mà phải ngồi trực ở hội
trường. Tôi nhận lời ngay dù biết rằng sẽ mất cái thú dự những ngày Tết với anh
em trong phòng và mất cái thú ngồi đánh mạt chược bằng những con bài gỗ do
chúng tôi tự làm lấy.
Thế là tôi lại có dịp lân la nói chuyện với Dực
về cái muỗng của tôi. Dực vẫn nghi ngờ rằng tôi có cái gì giấu trong đó. Tôi
đành kể cho Dực nghe:
https://fusionlayers.us/wp-content/uploads/2021/11/Spoon-3.jpg
Cái muỗng: “con cho bố mượn, khi nào bố
về, phải trả lại cho con đấy”.
– “Buổi sáng hôm tôi phải đi “học tập cải tạo”,
vợ tôi chuẩn bị một số đồ dùng hàng ngày đưa vào túi xách. Đứa con gái của tôi,
khi đó mới hơn ba tuổi, thấy mẹ nó bỏ vào túi xách nào là quần áo, khăn mặt,
thuốc men… nó đang ăn sáng, cũng bỏ vào xách tay của tôi cái muỗng nó đang ăn và
dặn: “con cho bố mượn, khi nào bố về, phải trả lại cho con đấy”.
Tôi ôm con gái gật đầu hứa khi về bố sẽ trả.
Nhưng quả thật tôi vẫn nghĩ chẳng bao giờ tôi trả lại được cho nó. Lần chia tay
này có thể là vĩnh viễn… Chúng tôi ngậm ngùi chia tay, không thể hẹn được ngày
về vì có biết ngày nào về đâu mà hẹn!
Thế là từ đó, cái muỗng theo tôi suốt trong những
bữa ăn, suốt trong những giấc ngủ. Hình ảnh con gái và gia đình tôi hiện lên
qua cái muỗng đó. Tôi vẫn đánh lừa tôi rằng tôi đang được ăn bên con gái, bên
những người thân. Dù tôi biết rất rõ sự lừa dối ấy là một niềm ước vọng không
bao giờ thành hiện thực, nhưng vậy mà đôi lúc tôi cũng thấy ấm lòng.
Nghe câu chuyện ấy, Dực tỏ ra chần chừ, nhưng
hắn vỗ vai tôi:
– “Thôi được, nếu đã là như thế thì tôi giúp cậu.
Tối nay, khi ngồi coi phòng đọc sách, tôi sẽ giữ phần bánh chưng lại cho cậu,
tôi sẽ gọi cậu xuống phòng thi đua cho cậu ngồi ăn ở đó, trong khi tôi gọi ban
thi đua lên phòng hội thì tôi giả vờ để quên chìa khóa kho. Cậu mở cửa vào lấy,
có gì thì cậu chịu trách nhiệm. Nó mà vớ được thì ‘kỷ luật’ suốt cái Tết này đấy,
chưa biết chừng suốt mùa xuân.”
Chẳng còn cách nào khác, tôi đành làm theo
cách “ăn trộm” này. Tối đó tôi mở khóa mò vào gian nhà kho. Ánh điện từ nhà
ngoài hắt vào, vừa đủ soi sáng cái đống hầm bà làng đủ thứ đồ dùng lặt vặt vừa
bị thu mấy hôm trước. Tôi sục ngay vào cái đống linh tinh đó, quả là những anh
bạn tù của tôi có lắm trò chơi thật.
Thôi thì đủ thứ, cái điếu cày được làm bằng những
ống hỏa châu hoặc những cáng băng ca được cắt ngắn, chạm trổ rồng phượng, khắc
gọt rất tinh vi. Những cái trâm cài đầu, những cái lược cho con gái hay cho người
yêu, làm bằng nhôm được khắc những cái tên “Hồng Hoa, Bích Phượng, Thúy Hường…”
nghe nao cả lòng. Những con dao nhỏ xíu, những cái muỗng gò bằng tôn cũng có
hoa lá cành xinh xắn. Tất cả những cái gì bằng sắt đều nằm gọn ở đó.
Sách vở tiếng Anh tiếng Pháp và đủ thứ giấy tờ
lộn xộn. Cái mà tôi kiếm được trước tiên lại là cái bằng lái xe của tôi. Tôi
không dại gì mà không đút vào túi, dù chẳng biết để làm gì. Tôi lại hì hục lục
tiếp, vừa hồi hộp vừa phải thật nhanh tay, tôi đâm ra lính quýnh. Dù chỉ một tiếng
động nhỏ cũng khiến tôi giật mình. Cái muỗng của tôi vẫn chưa tìm thấy. Ruột
nóng như lửa đốt, tôi bới tung hết cả cái đống ấy và đâm hốt hoảng nếu cái muỗng
không còn ở đó nữa. Nhưng may quá, cái muỗng kia rồi, nó nằm dưới cuốn sách dày
cộm của “thằng chết tiệt” nào đó. Nó chỉ thò ra có mỗi cái đuôi, tôi cũng nhận
ra nó ngay. Lúc đó tôi có cảm tưởng như “con có ở xa hàng cây số thì bố cũng cứ
nhận ra con như thường”.
Tôi vồ lấy nó như sợ bị người ta giật mất. Tôi
nhìn cái hoa văn chạy dọc theo cán muỗng mà tôi đã quá thân thuộc như chính cái
nét mặt con gái tôi khi nó “nhí nhảnh” đưa cái muỗng vào trong túi xách. Nó vẫn
cứ tưởng là một chuyện vui, bố đi chơi rồi mai bố về. Ừ thì vui. Tôi cười trong
nụ cười mếu máo của mẹ nó và trong nụ cười hồn nhiên của nó. Không hiểu sao
trong lúc gay cấn như thế mà hình ảnh xưa lại hiện lên rất nhanh như một ánh chớp.
Tôi vọt ra khỏi phòng khóa cửa lại, biến nhanh vào bóng tối trên con đường về
“khu biệt kích”. Thoát nạn! Cái Tết ấy tôi lại được vui chơi với cái muỗng của
tôi, dù tôi đã phải hy sinh suốt ba ngày, trong khi mọi người được nghỉ ngơi
thì tôi cứ phải quanh quẩn trong cái “phòng đọc sách” chẳng có ma nào thèm ngó
đến ấy.
Những dịp nghỉ ngơi như thế cũng hiếm hoi như
chuyện được ăn một bữa cơm đúng là cơm chứ không phải khoai sắn hay bo bo.
Nhưng quả là tôi thấy hạnh phúc dù ngồi thui thủi một mình. Tôi có cái muỗng rồi,
còn cần gì vui chơi nữa. Đó chính là mùa xuân của tôi.
Nhưng không phải đó là một lần duy nhất tôi phải
“cứu lấy” cái vật gia bảo của mình. Hai lần sau cũng tương tự, cũng bị tịch thu
rồi cứu lại được cứ như sắp ra pháp trường rồi lại được cứu. Chỉ tiếc rằng người
cứu tôi không phải là người bạn đồng minh đã từng chiến đấu với các đồng ngũ của
tôi trong những năm qua, người đồng minh đó đã “gan dạ” cuốn cờ chạy nhanh và
chạy xa quá rồi. Thôi thì tôi tự cứu lấy cái muỗng của tôi vậy.
Một lần khác, tôi lội qua con suối sau cơn mưa
lớn. Chỗ chúng tôi làm phải đi qua một con suối, gọi là suối lạnh. Bình thường
nó cạn, dòng nước trong vắt dịu dàng trôi lờ lững trên những tảng đá xanh.
Chúng tôi thường dùng nơi này làm bến tắm. Nhưng cứ có một cơn mưa lớn là nước
từ những triền đồi vây quanh bốn hướng ào ạt đổ xuống, chỉ cần nửa giờ sau là
con suối trở nên hung hãn, nước chảy cuồn cuộn và mang theo những cành cây, những
khúc gỗ lao băng băng. Chúng tôi phải gấp rút lội qua con suối trở về trước khi
con suối trở thành hung dữ. Sang gần tới bờ bên kia, tôi loạng chọang làm đổ
cái túi đồ đựng những thứ lặt vặt trong đó có cái muỗng. Ở đây tôi thuộc từng
khe đá nên tôi không ngần ngại nhoài người xuống mò. Anh bạn nhảy dù, la lên:
– “Bộ ông điên sao?”
Tôi điên thật, hy vọng mình mò được. Nhưng nước
chảy xiết quá tôi lại thua. Anh bạn nhảy dù trẻ, què một tay vì bị thương ngoài
chiến trường, rất hiểu tôi nên anh đi xa hơn một chút và khom người xuống, thò
một tay ra cái khe hòn đá là tìm được lại cho tôi được cái muỗng. Đôi mắt anh rất
tinh, anh mỉm cười:
– “Tôi biết ông mất cái gì rồi.”
IV.
Chuyện trớ trêu là hơn 12 năm sau, tôi đã trở
về, nhưng chưa trả lại cái muỗng cho con tôi được vì mẹ con nó đã vượt biên, định
cư ở nước ngoài. Hơn hai mươi năm, tôi chưa hề gặp lại con gái tôi. Tính đến
năm nay là 27 năm, con gái tôi đã 30 tuổi. Ngày 29 tháng 9-2002 vừa qua, cháu
đã lập gia đình ở Miami Florida.
Nhận được thiệp báo tin, tôi không biết mình
vui hay buồn. Hình như không phải là vui hay buồn mà là một thứ cảm giác kỳ lạ
cứ lơ lơ lửng lửng lẫn lộn. Chú thím nó và các anh chị nó ở Mỹ đều hẹn nhau đi
dự đám cưới. Tôi thì không, chẳng hẹn hò được điều gì cả và chẳng làm được cái
gì cả. Tôi có cảm giác như mình thừa. Rất may là trước ngày đám cưới, cô chú nó
về Sàigòn, chính tay tôi gửi được tấm thiệp mừng con gái. Tôi gửi theo cái muỗng
trả lại cho con gái tôi như lời hứa 27 năm về trước. Vật đó có thể thay cho sự
có mặt của tôi không? Tôi không biết. Nhưng tôi chỉ nghĩ rằng gửi cho cháu để
cháu hiểu rằng lúc nào tôi cũng coi như cháu còn nhỏ lắm, như mới hôm qua hai bố
con còn ở bên nhau. Tôi đi chơi đâu đó và hôm nay trở về. Nhưng cháu đã đi xa
và tôi còn ở lại Sàigòn, nơi nó đã sinh ra. Cháu sẽ nghĩ gì, tôi không biết.
Nhưng vài hôm sau thì có một điều tôi biết rất
rõ là từ khi cái muỗng được gửi đi, tôi cảm thấy trống trải như mất mát một cái
gì, xa vắng một cái gì thân thiết hàng ngày ở bên mình. Tôi cho rằng nó cũng giống
như cái cảm giác của những ông bố bà mẹ khi cho con gái mình đi lấy chồng xa. Nỗi
buồn lâng lâng bay chập chờn khắp nơi. Nhưng đó chính là sợi dây vô hình nối liền
mãi mãi tình thương yêu dù ở bất kỳ nơi nào trên hành tinh này. Cuối cùng người
ta chỉ còn lại cái tình. Cái tình ấy dù gửi đi tới đâu cũng vẫn còn lại, đôi
khi lại mạnh mẽ và sâu sắc hơn, chỉ khi nào người ta tự đánh mất nó thì nó mới
mất mãi mãi. Tôi chắc chẳng ai dại gì làm mất cái thứ báu vật đó trên đời không
gì có thể so sánh được.
Lẽ ra chuyện này tôi đã viết ngay từ tháng
9/2002 nhân dịp cháu lập gia đình. Nhưng tôi ngồi mãi trước computer, không gõ
được chữ nào, đầu óc lung tung. Dường như khi cảm xúc quá đầy, người ta không
thể làm gì được ngoài việc cứ để cho nó tuôn trào lênh láng như ngồi dưới cơn
mưa. Không nghĩ ngợi gì cả, không làm gì cả, cứ ngửa mặt lên cho mưa đầy mặt,
thế thôi! Đúng là chuyện của người thì nhanh mà chuyện của mình thì nghẹn. Mãi
đến hôm nay tôi mới ghi lại được những dòng chữ này, nhưng tôi cho rằng chẳng
bao giờ muộn vì nó là thứ chuyện của cả một đời hay là của muôn đời.
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng
lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Bài
của tác giả. DCVOnline minh hoạ.
No comments:
Post a Comment