“Nền
văn minh sinh thái” bị kĩ thuật số kiểm soát ở Trung Quốc
Élodie
René [*]
- Phân Tích Kinh Tế
Phạm Như Hồ dịch
13.12.21
http://www.phantichkinhte123.com/2021/12/nen-van-minh-sinh-thai-bi-ki-thuat-so.html#more
Trung Quốc của thế kỷ 21 quyến rũ bao nhiêu thì cũng gây
lo sợ bấy nhiêu. Đối với một số nhà bình luận, sự nổi lên của Trung Quốc trên
trường quốc tế có nguy cơ khóa lại quỹ đạo của thế giới hướng tới những hành động
công nghệ liều lĩnh không thể tránh được, tức là, ít nhiều trong dài hạn, hướng
tới sự sụp đổ sinh thái. Đối với những người khác, ngược lại, sự nổi lên của
Trung Quốc trên trường kinh tế và chính trị toàn cầu có khả năng dẫn đến sự
chuyển đổi sinh thái trên quy mô hành tinh[1].
Do đó, cần phải xem xét kỹ hơn mối liên hệ mà giới tinh hoa chính trị Trung Quốc
có với sinh thái học.
Với gần 20% dân số thế giới, kể từ năm 2007, Trung Quốc
đã là quốc gia phát thải CO2 lớn nhất trên hành tinh và dấu ấn sinh thái của nước
này trên hệ thống Trái đất hiện là rất lớn. Nếu Trung Quốc đã trở thành một
trong những tác nhân chính góp phần đẩy nhanh các rối loạn sinh thái toàn cầu
trong những thập kỷ gần đây, thì Trung Quốc cũng là một trong những nạn nhân đầu
tiên: xáo trộn khí hậu, tàn phá rừng phủ, xói mòn đất canh tác, ô nhiễm nguồn
nước, đất và bầu không khí, v.v..[2]
Sự gia tăng của
các mối quan tâm về sinh thái
Trong hai thập kỷ qua, trên đất nước này đã liên tiếp xảy
ra những thảm họa về sức khỏe và môi trường gây chấn động dư luận[3].
Những sự kiện nghiêm trọng này, liên quan trực tiếp đến sự gia tăng ô nhiễm đô
thị và công nghiệp, đã làm nảy sinh những thách thức chính trị quan trọng mà
chính quyền trung ương buộc phải tính đến[4].
Đối với chính quyền, tình hình còn đáng lo ngại hơn, vì chủ yếu tầng lớp trung
lưu thành thị, những người hưởng lợi chính từ chính sách tăng trưởng và mở cửa
của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), là những người vận động về các thách thức
sinh thái[5].
Người dân thành phố Trung Quốc ngày càng lo ngại về các vấn đề ô nhiễm và đòi hỏi
sự minh bạch hơn trong đời sống công cộng của đất nước.
Vả lại, những giai đoạn của “ngày tận thế do không khí
(airpocalyspe)” của mùa đông 2013 đã kết tinh những bất bình của công chúng đối
với chính phủ về việc họ không có khả năng ngăn chặn các vấn đề ô nhiễm không
khí ở các thành phố lớn của đất nước[6].
Những biến cố này nêu bật khó khăn của các cơ quan công quyền trong việc dung
hòa sự phát triển kinh
tế với việc bảo vệ môi trường.
Do đó, những năm gần đây được đánh dấu bằng sự phổ biến rộng
rãi tin tức và sự chính trị hóa các vấn đề môi trường trên báo chí và mạng xã hội
Trung Quốc, thúc đẩy chính quyền trung ương hành động kiên quyết hơn trong cuộc
chiến chống ô nhiễm. Kiểm soát các rủi ro kinh tế - xã hội gắn với thảm họa
sinh thái ảnh hưởng đến lãnh thổ Trung Quốc đã trở thành một trong những thách
thức lớn cho sự ổn định chính trị của đất nước.[7]
Ý thức rằng tính chính đáng chính trị của mình đang bị
thách thức, ĐCSTQ đã chính thức nâng việc bảo vệ môi trường và quá trình chuyển
đổi sinh thái của mô hình phát triển của mình lên hàng ưu tiên chính trị quốc
gia. Với quan điểm này, ĐCSTQ trong nhiều năm đã thúc đẩy khái niệm “văn minh
sinh thái” (shengtai wenming 生态文明) như một
sự thay thế lý thuyết và thực tiễn cho khái niệm quốc tế về sự phát triển bền vững.
Được Hồ Cẩm Đào đưa ra trong các bài phát biểu chính thức của Đảng vào năm 2007
trong Đại hội lần thứ XVII của ĐCSTQ, khái niệm này nhanh chóng trở thành một
trong những khẩu hiệu chính trị hàng đầu của tu từ học xanh của quyền lực cộng
sản Trung Quốc.[8]
Văn minh sinh thái đã được nâng lên hàng “mục tiêu chủ yếu”
của đất nước vào năm 2012. Năm sau, ĐCSTQ đã thành lập “Nhóm công tác thúc đẩy
phát triển kinh tế và văn minh sinh thái.” Sau đó, vào năm 2015, Hội đồng Nhà
nước đã công bố hai văn bản chính thức trình bày chi tiết các chính sách và các
cách tiếp cận thực tế mà khái niệm này bao gồm. Gần đây hơn, trong Đại hội
ĐCSTQ lần thứ 19 vào năm 2018, Tập Cận Bình đã đưa văn minh sinh thái trở thành
một nguyên tắc hiến định.
Trong bài viết này, chúng tôi nghĩ là cần phân tích sự
phát triển của các diễn ngôn và các hệ thống tường thuật khác nhau về nền văn
minh sinh thái ở Trung Quốc. Trước hết chúng ta sẽ xem xét các cơ sở lý thuyết
của khái niệm này, và sau đó nghiên cứu hiệu năng của nó.
Từ “thảm họa sinh
thái” đến “nền văn minh sinh thái”
Ye Qianji (1909-2017)
Xuất hiện ở Liên Xô vào cuối những năm 1980 ngay sau khi
báo cáo Brundtland về phát triển bền vững được công bố, khái niệm “văn minh
sinh thái” đã được nhà kinh tế nông nghiệp Ye Qianji (1909-2017) giới thiệu
trong giới học thuật Trung Quốc. Ye lần đầu tiên giới thiệu khái niệm này với
các đồng nghiệp của mình vào năm 1987 tại một hội nghị quốc gia về nông học
sinh thái ở Bắc Kinh. Trong suốt sự nghiệp của mình, Ye luôn nhấn mạnh sự cần
thiết phải thay đổi mô hình phát triển để tránh sự tàn phá không thể phục hồi của
các hệ sinh thái tự nhiên trên khắp thế giới.
Năm 1999, Ye, khi đó đã 90 tuổi, đã trình bày lý thuyết của
mình về “thảm họa sinh thái” đang diễn ra tại Hội nghị Khoa học Tương Sơn ở Bắc
Kinh. Trong hội nghị này, ông đã cảnh báo những người tham gia về những đảo lộn
triệt để của hệ thống Trái đất đang diễn ra, nhấn mạnh rằng các hoạt động của
con người là nguồn gốc của “thảm họa sinh thái” hành tinh lớn này. Ông nhấn mạnh
những mối đe dọa mà các rối loạn của hệ sinh thái toàn cầu gây ra đối với sự tồn
tại của nhân loại, nêu bật sự cần thiết phải bắt đầu một quá trình chuyển đổi lớn
hướng tới một “nền văn minh sinh thái”.[9] Đối
với Ye, quá trình chuyển đổi này phải dựa trên triết lý môi trường và sinh thái
học để xây dựng các hệ thống giá trị và các hình tượng khác về thế giới mang
tính phê phán hơn đối với tính hiện đại công nghệ-công nghiệp và ít lấy con người
làm trung tâm hơn.[10]
Coraline
Goron
Tác động của các công trình của Ye về nền văn minh sinh
thái ban đầu chỉ giới hạn trong giới nhỏ các câu lạc bộ của các trí thức Trung
Quốc nhạy cảm với đạo đức môi trường. Như được thể hiện qua công trình của
Coraline Goron[11],
số lượng các bài báo học thuật Trung Quốc, bao gồm tất cả các
ngành, đề cập khái niệm văn minh sinh thái vẫn còn hạn chế cho đến giữa những
năm 2000, nghĩa là cho đến khi nó được đưa vào các văn bản chính thức của
ĐCSTQ. Sau đó, số lượng các ấn phẩm khoa học của Trung Quốc về nền văn minh
sinh thái đã tăng lên đáng kể, để bùng nổ sau năm 2013.
Trước tiên, các trào lưu mác-xít sinh thái và
chủ nghĩa xã hội sinh thái của cánh tả mới ở Trung Quốc đã nắm lấy khái niệm
này. Các cuộc thảo luận tri thức và chính trị về nền văn minh sinh thái ban đầu
đã tích hợp một chiều kích phê phán đối với chủ nghĩa tự do kinh tế, các giá trị
của xã hội công nghiệp và những bất công về môi trường. Nhưng tác động của
chúng về sự biến đổi và tính phê phán đã nhanh chóng bị xóa bỏ sau cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Pan
Yue (1960-)
Về phương diện này, cần phải nhớ lại rằng Pan Yue, một
trong những chính trị gia chính của Trung Quốc, gần với cánh tả mới, người đã
hoạt động để sáp nhập khái niệm văn minh sinh thái vào ngôn từ chính thức của
ĐCSTQ, đã buộc phải im hơi lặng tiếng vào cuối những năm 2000, sau khi đã công
khai bảo vệ các nhà hoạt động môi trường vận động chống lại việc xây dựng một
nhà máy paraxylene ở Hạ Môn trong năm 2007. Khi đó, ông là giám đốc Cơ quan Bảo
vệ Môi trường Quốc gia dưới chính quyền Hồ Cẩm Đào, và được coi là một trong những
ngôi sao đang lên của ĐCSTQ. Nếu các lập trường của ông, đặc biệt tiến bộ vì ủng
hộ sự hội nhập của các thành phần xã hội dân sự trong chính sách quản lý môi
trường của đất nước, đã góp phần vào tiến trình chính trị hóa các vấn đề môi
trường ở Trung Quốc, thì điều này cũng đã khiến ông bị đặt vào thế ngoài lề về
mặt chính trị.
Sau năm 2008, trong bối cảnh ngày càng có nhiều bất ổn về
hậu quả của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu trên toàn quốc, ĐCSTQ đã đóng cửa một
trong những tạp chí khoa học chính của cánh tả mới và những tham chiếu đến chủ
nghĩa xã hội sinh thái đã bị xóa khỏi các diễn ngôn chính thức về nền văn minh
sinh thái. Kể từ đó, những đóng góp về mặt lý luận của các trí thức tiến bộ
Trung Quốc đối với việc tường thuật về nền văn minh sinh thái đã giảm dần[12],
khi các cán bộ cao cấp nhất của Đảng đã nắm lấy khái niệm này để biến nó thành
khẩu hiệu hàng đầu trong luận điệu bảo vệ môi trường của họ.
Do đó, việc giới tinh hoa của Đảng đã nắm lấy khái niệm
này đã có xu hướng hạn chế đáng kể sức mạnh lý luận của nó, cản trở khả năng đề
cập một cách phê phán các vấn đề của chủ nghĩa tư bản, của tính hiện đại công
nghiệp hoặc của nền dân chủ. Chiều kích phê phán của khái niệm văn
minh sinh thái đã bị xóa bỏ và khái niệm này đã biến
thành một công cụ được sử dụng phục vụ cho sự tuyên truyền của Nhà nước[13].
Các bài phát biểu và các bài báo gần đây về nền văn minh sinh thái đã khác xa với
các công trình của Ye
Qianji và những cảnh báo của ông về “thảm họa sinh thái” toàn cầu đang diễn ra,
mà chỉ lặp lại đường lối chính thức của Đảng về tăng trưởng xanh và tiến trình
khử cacbon nền kinh tế. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu Trung Quốc thuộc trào lưu
chủ nghĩa xã hội sinh thái của cánh tả mới, như Wang Hui, vẫn tiếp tục xuất bản
các bài báo về nền văn minh sinh thái, nhưng từ nay họ chỉ ảnh hưởng một cách rất
hạn chế đến giới chính trị Trung Quốc.
Phát triển xanh,
đổi mới sinh thái và cai trị bằng thông tin
Sau khi loại trừ các chính trị gia và trí thức tiến bộ và
phê phán nhất, ĐCSTQ, đặc biệt là kể từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền vào năm
2013, đã đề ra việc thúc đẩy mô hình chuyển đổi từ trên xuống hướng tới nền văn
minh sinh thái, dựa trên cách tiếp cận hiện đại, định lượng, kỹ thuật và trấn
áp về các vấn đề sinh thái. Đối với Đảng cần phải dựa vào các tiến bộ kỹ thuật
và sự tăng trưởng xanh để đối mặt với các thách thức về môi trường và tăng cường
việc thực thi pháp luật về môi trường. “Sự phát triển xanh với các đặc trưng của
Trung Quốc” mà chính quyền Tập Cận Bình muốn thúc đẩy nằm trong quá trình liên
tục hướng tới sự tiến bộ, như một giai đoạn mới trong quá trình phát triển văn
minh của Trung Quốc. Quan điểm này về sự phát triển dựa trên sự quản lý mang
tính hệ thống và khoa học mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội của chính quyền
trung ương.
Như vậy, Tập Cận Bình đã sản xuất và phổ biến cho mọi cấp
của xã hội một diễn ngôn thắng lợi về sự đổi mới sinh thái của Trung Quốc do Đảng
lãnh đạo, nhờ những tiến bộ đạt được trong lãnh vực “đổi mới sinh thái”. Ý niệm
này, ở trung tâm của diễn ngôn chính thức về nền văn minh sinh thái, liên quan
đến khía cạnh công nghệ của sự tiến bộ, nhưng cũng liên quan đến chiều kích
chính trị và xã hội của nó[14].
Để thúc đẩy sự đổi mới sinh thái trong chính trị, nhà chức
trách đã dành một vị trí quan trọng cho các hệ thống quản lý môi trường mới bằng
thông tin, mà họ đã thử nghiệm từ vài năm nay[15].
Vấn đề là phải vừa tăng cường năng lực giám sát và kiểm soát kỹ thuật của các
cơ quan quốc gia[16],
mà còn vừa khuyến khích công chúng và những người kéo còi báo động tố cáo hành
vi “gian lận” của các doanh nghiệp và chính quyền địa phương gây tổn hại đến
môi trường[17] thông
qua các nền tảng kỹ thuật số. Khi làm như vậy, chính quyền tìm cách kiểm soát
và tập trung sự bất mãn của người dân và định hướng nó chống lại những chúa tể ở
địa phương, nhằm làm cho các cuộc biểu tình của quần chúng không đặt vấn đề về
tính chính đáng của chính quyền trung ương.
Ngoài ra, tầm quan trọng chiến lược của việc cai trị bằng
thông tin trong dự án văn minh sinh thái của ĐCSTQ còn củng cố thêm vai trò ưu
việt của lĩnh vực kỹ thuật số trong nền kinh tế chính trị của Trung Quốc. Vấn đề
là đưa những tiến bộ đạt được của các công ty, trong việc thu thập và phân tích
dữ liệu cũng như trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI), vào việc phục vụ cho
công cuộc “hiện đại hóa sinh thái” của đất nước.
Về vấn đề này, điều đáng lưu ý là chính phủ đang tìm cách
vận dụng các chỉ số phát triển mới, chẳng hạn như GDP xanh 2.0, dựa vào các phương pháp
tính toán dựa trên dữ liệu lớn về
môi trường. Dự án này được xem như là một giải pháp thiết thực để cải thiện việc
bảo vệ môi trường và việc hợp lý hóa các cách sử dụng các nguồn tài nguyên
thiên nhiên bằng cách sử dụng các dữ liệu được coi là khoa học và khách quan.
Điều này đòi hỏi việc giám sát, định lượng và kiểm soát
toàn bộ các hoạt động của con người và tác động của chúng đến các tài nguyên đất,
rừng, khoáng sản, năng lượng và nước của đất nước. Vấn đề là phải đánh giá lượng
tài nguyên bị tiêu thụ bởi các hoạt động kinh tế cũng như những thiệt hại môi
trường do phát triển công nghiệp và đô thị gây ra để tích hợp chúng vào hệ thống
tính toán GDP. Do đó, dự án tăng trưởng xanh và minh bạch này đòi hỏi phải
trang bị cho toàn bộ lãnh thổ các công cụ kỹ thuật số để thu thập dữ liệu về dấu
ấn sinh thái của các hoạt động của con người và tập trung chúng trong một nền tảng
duy nhất do chính quyền trung ương kiểm soát.
Thành phố sinh
thái, sự giám sát và chủ nghĩa chuyên quyền xanh
Đúng theo các diễn ngôn của ĐCSTQ, việc xây dựng một nền
văn minh sinh thái chỉ có thể thông qua sự củng cố vị trí trung tâm của quyền lực
và các năng lực cưỡng chế của nó[18].
Theo quan điểm này, đối với chính phủ của Tập Cận Bình, dự án GDP 2.0 là một
công cụ lý tưởng để thực hiện giấc mơ đổi mới sinh thái và “phát triển xanh với
đặc trưng Trung Quốc”. Thông qua hệ thống tài khoản xanh mới này, chính phủ hy
vọng có thể tối ưu hóa việc kiểm soát các luật môi trường (S.
Weigelin-Schwiedrzik, 2018), dựa vào sự tiến bộ của các công ty trong không
gian điều khiển để giám sát toàn bộ người dân và tự động hóa các biện pháp trừng
phạt trong trường hợp không tuân thủ các quy tắc, nhờ vào các thuật toán được
các cơ quan trung ương cấu hình. Cần lưu ý rằng Học viện Nghiên cứu Không gian
điều khiển Trung Quốc, một tổ chức tư vấn chiến lược do Tập Cận Bình sáng lập gần
đây để tư vấn cho các nhà chức trách về các vấn đề cai trị bằng điện tử, được
các nhà chức trách huy động để làm việc trên các “dữ liệu lớn” về môi trường nhằm
đưa chúng hoạt động về mặt chính trị[19].
Dựa vào đó, ĐCSTQ tìm cách thiết lập các hệ thống kỹ thuật
số trên toàn lãnh thổ để đánh giá, theo thời gian thực, hiệu quả hoạt động môi
trường của các công ty, các quan chức hành chính, cũng như của các công dân, nhằm
thúc đẩy các lối sống “xanh” hơn[20].
Susanne Weigelin-Schwiedrzik
Đây là lý do tại sao, như nhà nghiên cứu Susanne
Weigelin-Schwiedrzik chỉ ra, kế toán về GDP xanh 2.0 cuối cùng sẽ bao gồm “các
dữ liệu về cách các cá nhân sử dụng các nguồn tài nguyên khan hiếm như nước và
năng lượng, xử lý các chất thải của họ và chăm sóc sức khỏe của họ bằng cách ăn
những gì họ được cho là phải ăn”. Mọi công dân cần được giám sát trong môi trường
riêng tư của mình, 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần, để đảm bảo rằng hành
vi của họ vẫn tuân theo các quy tắc sống do ĐCSTQ đặt ra.[21]
Như vậy, dự án của Đảng về nền văn minh sinh thái hàm chứa
một “ý thức hệ chuẩn tắc” nhằm tác động đến thái độ đạo đức và lối sống của
công dân[22].
Điều này hoàn toàn phù hợp với hệ thống tín dụng xã hội mà chính phủ đã thử
nghiệm từ năm 2014, giúp chính phủ tác động đến hành vi của các tác nhân và điều
chỉnh mối quan hệ của họ với hệ sinh thái thông qua các công cụ kỹ thuật số kiểm
soát xã hội.
Mang lại sức mạnh quy phạm khổng lồ cho các hệ thống xử
lý dữ liệu lớn, nền văn minh sinh thái cũng cộng hưởng với các dự án thành phố
sinh thái xanh và thông minh đang phát triển trên khắp Trung Quốc. Các dự án
thành phố kết nối này dựa trên việc thiết lập các dữ liệu về các cá nhân và về
môi trường như một quá trình tổ chức chính trị của các hệ sinh thái đô thị và
đòi hỏi việc tăng cường giám sát và kiểm soát cư dân thành phố nhân danh một
môi trường sống trong lành và sinh thái hơn.
Là những nơi đổi mới xã hội, công nghệ, chính trị và văn
hóa, các thành phố tạo thành không gian thử nghiệm ưu tiên cho các công cụ cai
trị bằng thông tin mới mà chính phủ đang triển khai. Kế hoạch 5 năm mới nhất của
Trung Quốc nhấn mạnh đến “việc tối ưu hóa các cấu trúc không gian quốc gia như
phương tiện thiết yếu để xây dựng nền văn minh sinh thái”[23].
Trong những năm gần đây, khái niệm “đô thị hóa sinh thái” đã có xu hướng nổi
lên như một hệ hình chủ
đạo trong các bản tường thuật về sự phát triển đô thị ở cả nước[24].
Khái niệm này, được coi là khoa học và thuần lý, đòi hỏi sự tích hợp các hệ thống
kiểm soát toàn thị hệ sinh
thái vào các chính sách quy hoạch đô thị để có thể chuẩn hóa hành vi của con
người nhằm cho chúng trở nên “sinh thái hơn”.
Như vậy, đằng sau diễn ngôn chính thức về nền văn minh
sinh thái, một mô hình mới của “chủ nghĩa chuyên quyền xanh”[25] đang
xuất hiện, mà các phương thức cai trị
dựa trên việc mở rộng các cơ chế giám sát và kiểm soát dân cư. Trong viễn cảnh
này, đối với chính phủ, các “thành phố sinh thái thông minh” là các phòng thí
nghiệm hoàn hảo để thử nghiệm “chính sách sinh học xanh 2.0” này. Cần lưu ý rằng
Trung Quốc dự kiến sẽ có gần một tỷ cư dân thành thị vào năm 2030, tức là
70% tổng dân số[26].
Do đó, nền văn minh sinh thái của ĐCSTQ sẽ kiên quyết là đô thị và toàn thị.
Nếu sự lan rộng của thuyết về sự sụp đổ ở các nền dân chủ
tự do châu Âu dựa trên sự lưu hành của kiến thức về
khủng hoảng sinh thái ở quy mô lớn, thì có vẻ như Trung Quốc đang có quan điểm
ngược lại với mô hình phổ biến thông tin này, ngay khi sự phát triển của
Internet trên lãnh thổ của Trung Quốc có thể mang lại hy vọng về sự tham gia mạnh
hơn của xã hội dân sự vào việc quản lý môi trường của đất nước. Các biện pháp để
định hướng bằng kỹ thuật số các hành vi do chính quyền Tập Cận Bình triển khai
có nguy cơ tịch thu các kiến thức tổng quát ở cấp chính quyền trung ương và các công
ty lớn của web Trung Quốc (BATX), bằng cách phổ biến cho người công dân bình
thường, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp nhỏ chỉ những đánh giá/khuyến
khích họ phải tuân thủ kỷ luật[27].
Đó cũng là một cách để trốn tránh câu hỏi đặt ra cho các
nền dân chủ: liệu các nền dân chủ này có thể đảm bảo sự gắn kết khi đối mặt với
những xáo trộn vật chất? Ở đây, có vẻ như một phản ứng phi dân chủ đang xuất hiện
ở Trung Quốc, điều này cho thấy rằng, miễn là chúng ta có thể duy trì cơ sở hạ
tầng kỹ thuật số, chúng ta có thể giảm thiểu sự xuống cấp và làm các cú sốc nhẹ
đi bằng cách đưa người dân vao khuôn phép, từ sự phối hợp tập trung.
Phạm Như Hồ dịch
Nguồn: “La
“civilisation écologique” contrôlée par le numérique en Chine”, Multitudes,
2019/3 (n076), pp. 86-93.
Chú
thích:
[1] Spangenberg,
J. H. (2014). China
in the anthropocene: Culprit, victim or last best hope for a global ecological
civilisation? BioRisk: Biodiversity & Ecosystem Risk
Assessment, (9).
[2] Wu,
F., & Edmonds, R. (2017), “China’s
Three-Fold Environmental Degradation. Environmental Degradation”
in Critical Issues in Contemporary China, 2nd edition, edited by
Czeslaw Tubilewicz, Routledge.
[3] Huchet,
J. F. (2016), La crise environnementale en Chine: évolutions et limites
des politiques publiques, Presses de Sciences Po.
[4] Salmon,
N. (2016). Les journalistes chinois engagés dans le domaine de l’environnement:
les équilibres de la critique entre acceptation et refus du politique (Doctoral
dissertation, Sorbonne Paris Cité).
[5] Hulme,
A. (2018). Greening the Chinese city: young people, environmental
activism and ChinaNet. In Chinese Urbanism (pp. 90-101). Routledge.
[6] Huchet,
J. F. (2016). La crise environnementale en Chine: évolutions et limites
des politiques publiques, Presses de Sciences Po.
[7] Ibid.
[8] C.
Goron, (2018), “Ecological
Civilization and the Political Limits of a Chinese Concept of Sustainability”, Perspectives
chinoises, 2018(4), 25-38.
[9] Y.
E. Qian-ji, (2006). Catastrophic Phenomena in the Global Environmental
Ecological System and the Theory of Ecological Catastrophism [J]. Journal
of Southwest Agricultural University (Social Science Edition).
[10] M.
Marinelli, (2018), “How
to Build a “Beautiful China” in the Anthropocene. The Political Discourse and
the Intellectual Debate on Ecological Civilization”, Journal
of Chinese Political Science, 1-22.
[11] C.
Goron, (2018), “Ecological
Civilization and the Political Limits of a Chinese Concept of Sustainability”, Perspectives
chinoises, 2018(4), 25-38.
[12] Ibid.
[13] Ibid.
[14] S.
Geall, & A. Ely, (2018), “Narratives
and Pathways towards an Ecological Civilization in Contemporary China”, The
China Quarterly, 236, 1175-1196.
[15] Y.
Tan, (2014), “Transparency
without Democracy: The Unexpected Effects of China’s Environmental Disclosure
Policy”, Governance, 27(1), 37-62.
[16] Xi
Jinping, 19th Communist Party Congress speech on October 18, 2017 relating to
Ecological and Environmental Protection.
[17] L.
Zhang, A. P. Mol & G. He, (2016), “Transparency
and information disclosure in China’s environmental governance”, Current
Opinion in Environmental Sustainability, 18, 17-24.
[18] C.
Goron, (2018), “Ecological
Civilization and the Political Limits of a Chinese Concept of Sustainability”, Perspectives
chinoises, 2018(4), 25-38.
[19] Interview
avec le Vice President de la Chinese Academy of Cyberspace Studies, Paris, juin
2018.
[20] S.
Weigelin-Schwiedrzik, (2018). Doing
things with numbers: Chinese approaches to the Anthropocene, International
Communication of Chinese Culture, 1-21.
[21] Ibid.
[22] H.
Y. Dam, & S. S. di Vettimo, “Entre
réconciliation avec la nature et “civilisation écologique””, (2018).
In Penser l’anthropocène. Presses de Sciences Po.
[23] C.
P. Pow, (2018), “Building
a harmonious society through greening: Ecological civilization and aesthetic
governmentality in China”, Annals of the American
Association of Geographers, 108(3), 864-883.
[24] J.
C. Chen, (2017). Social-environmental dilemmas of planning an
‘ecological civilisation’in China. In The Routledge Companion to Planning
in the Global South (pp. 180-191). Routledge.
[25] B.
Gilley, (2012), “Authoritarian
environmentalism and China’s response to climate change”, Environmental
Politics, 21(2), 287-307.
[26] McKinsey
Global Institute, Preparing for China’s urban billion –
Executive Summary – March 2009.
[27] M.
Meissner, & J. Wübbeke, (2016). IT-backed Authoritarianism:
Information Technology Enhances Central Authority and Control Capacity under Xi
Jinping. China’s Core Executive: Leadership styles, structures and
processes under Xi Jinping, 52-57.
[*] Élodie René là
nghiên cứu sinh tiến sĩ về kinh tế học ở Đại học Northampton (Anh). Bà còn là
nhà phân tích về chính trị học và một nhà tham vấn về mậu dịch quốc tế. Công
trình nghiên cứu của Bà tập trung vào vai trò của kỹ thuật số trong các tiến
trình đổi mới sinh thái ở Trung Quốc. Trước đây, bà đã có những hoạt
động về tình báo kinh tế trong tiến trình quốc tế hoá của các công ty viễn
thông Trung Quốc. Bà đã sống nhiều năm ở Bắc Kinh và Thượng Hải và đã từng làm
việc trong bộ phận quan hệ công chúng của công ty Hoa Văn (Huawei).
No comments:
Post a Comment