Dân
chủ quá nhiều khi cũng không tốt
Lê Mạnh
Hùng
Sep 23, 2020
https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/dan-chu-qua-nhieu-khi-cung-khong-tot/
Trong lịch sử, thế giới
Athens vẫn được coi như là cái nôi của nền dân chủ, nơi đầu tiên trên thế giới
mà người dân thường có tiếng nói và có quyền quyết định số phận của mình và đất
nước mình. Nhưng ít có ai biết đến rằng Athens cũng là nấm mồ của dân chủ.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2020/09/A1-Dan-chu-nhieu-khong-tot-1536x1024.jpg
Người biểu tình chặn
xa lộ trong một cuộc biểu tình kêu gọi cách chức Chánh Biện Lý Jackie Lacey của
Los Angeles County, California, hôm 1 Tháng Bảy, 2020. (Hình minh họa: Valerie
Macon/AFP via Getty Images)
Nếu dân chủ đưa Athens từ
một tiểu quốc nhỏ lên thành một tấm gương cho cả thế giới thì nó cũng làm cho đế
quốc Athens sụp đổ và nền dân chủ tàn lụi.
Người xưa định nghĩa “dân
chủ” – quyền cai trị của người dân – một cách rất là trực tiếp mà có lẽ bây giờ
không có ai còn theo: toàn dân tụ họp quyết định mọi việc, từ việc bỏ nhiệm các
viên chức cai trị (qua việc rút thăm), cho đến quyết định chiến tranh hay hòa
bình. Đó chính là lý do các vị cha già sáng lập ra nước Mỹ hoài nghi chế độ dân
chủ (toàn thể Hiến Pháp mới không hề nhắc đến chữ dân chủ) bởi vì lúc đó dân chủ
vẫn còn giữ ý nghĩa cổ Hy Lạp của nó. Cái thể chế dân chủ mà họ thành lập với
việc bỏ phiếu bầu những người lãnh đạo thì khác với nền dân chủ Hy Lạp như một
ngôi nhà hiện đại so với một đền thờ cổ Hy Lạp.
Thành ra ta có thể nói rằng
dân chủ có nhiều mức độ và nhiều khi dân chủ quá chưa chắc đã tốt. Phương Tây nổi
lên và phồn thịnh chi phối nhân loại là nhờ nguyên tắc đó. Và để cho nền dân chủ
có thể tồn tại nay đã đến lúc quay trở lại nguyên lý đó.
Không có một chiều hướng
toàn cầu được người ta nhắc đến và tìm hiểu nhiều hơn là cuộc khủng hỏang dân
chủ trong những năm vừa qua. Nó
có một trường hợp điển hình tại ngay chính nước Mỹ với Tổng Thống Donald Trump
khuyến dụ rằng ông có thể không chấp nhận nhường chức nếu thất bại trong cuộc bầu
cử Tháng Mười Một sắp tới.
Dựa trên con số khổng lồ
những tài liệu được các nhà nghiên cứu tại Đại Học Cambridge thu thập, ông
Trump không phải là người độc nhất. Những hoài nghi của dân chúng về chế độ dân
chủ đang gia tăng trên toàn thế giới. Ngay cả tại Mỹ số người bất mãn với chế độ
dân chủ Mỹ cũng tăng vọt lên. Và nó thể hiện qua sự hấp dẫn của các cuốn sách
như “The Road to Unfreedom” và “How Democracy Ends.”
Thế nhưng không bắt buộc
một chế độ chuyên chế sẽ thay thế cho chế độ dân chủ hiện nay. Giữa dân chủ và
độc tài còn có nhiều thể chế khác mà có thể bớt dân chủ hơn nhưng cuối cùng
cũng không phải là độc tài.
Như ta có thể để một khoảng
cách xa hơn giữa những người cai trị và những người bị trị mà không làm giảm
quyền tối hậu của người dân: quyền quyết định những ai cai trị mình. Có nhiều
cách để làm việc này. Một khoảng cách dài hơn giữa hai lần tuyển cử sẽ giúp người
ta có một cái tầm nhìn xa hơn và giảm tần số tranh chấp giữa các nhóm cử tri.
Một cách khác là trao nhiều
quyền hạn cho các chuyên gia sẽ phi chính trị hóa nhiều lãnh vực chính sách tế
nhị. Nếu đề nghị này có vẻ “elitism” thì ta cũng đã có những tiền lệ. Việc tạo
quyền quyết định chính sách tiền tệ cho các Ngân Hàng Trung Ương đã giúp giảm
thiểu tầm mức nghiêm trọng của các chu kỳ kinh tế.
Và việc ngăn chặn những
hình thức dân chủ trực tiếp (trưng cầu dân ý) nếu mà có trước đó tại Anh thì
tình hình xã hội Anh đã bớt phân hóa so với hiện nay. Hoa Kỳ may là không có vấn
đề này tại mức liên bang, nhưng việc lạm dụng điều này tại tiểu bang lớn nhất,
California đã làm cho tiểu bang này tàn tệ. May là California là một tiểu bang
mà hầu như chưa có gì có thể làm phá sản.
Trong cuốn “The Wake Up
Call,” một cuốn sách mới ra đời về vụ dịch bệnh toàn cầu hiện nay, các tác giả
John Micklethwait và Adrian Wooldridge tìm hiểu thể chế các quốc gia thành công
nhất trong việc chống dịch bệnh. Và họ kết luận không phải cứ nhà nước chuyên
chế là thành công. Các yếu tố chính là khả năng cai trị và niềm tin của dân
chúng vào nhà nước.
Điều mà các tác giả chỉ
nói phớt qua là nhiều quốc gia này hoạt động ở một mức cách xa với dân chúng
hơn là những điều người ta nghĩ về dân chủ. Singapore với nền “dân chủ hướng dẫn”
là một trường hợp điển hình. Nhưng có những trường hợp tế nhị hơn. Ngoại trừ một
thời gian rất ngắn, Nhật Bản chỉ có một đảng cai trị. Đài Loan cũng có một mô
hình tương tự trong hầu hết lịch sử độc lập của mình. Ngay cả Đức cũng có một
giới hạn trong Hiến Pháp chống lại trưng cầu dân ý và từ 1982 đến nay mới có ba
vị thủ tướng.
Bất kỳ một cải tổ nào đi
về hướng đó chắc chắn là sẽ bị chửi là phản dân chủ. Nhưng thật ra không có một
quan hệ tuyến tính nào giữa mức độ nhân quả và sự an lạc của dân chúng (demos).
Và cũng không có một chứng cớ nào là sự nổi lên của các phong trào chống đối
“anti-politic” của những năm qua là do việc người dân thiếu quyền hạn.
Định chế ít được dân chúng tin tưởng nhất tại Mỹ là Quốc Hội, mà Hạ Viện
với nhiệm kỳ hai năm biến nó thành một cơ quan vận động tranh cử nhiều hơn là một
cơ quan lập pháp. Tối Cao Pháp Viện, một định chế không do ai bầu được người ta
tin tưởng hơn là phủ tổng thống; và quân đội, mà đa số dân chúng không có tiếp
xúc bao nhiêu là định chế được nhiều sự tin tưởng của dân chúng nhất.
Tình trạng này lại còn
đúng hơn ở Anh. David Cameron, ông thủ tướng mà cuộc trưng cầu dân ý về Brexit
dẫn đến tình trạng rối ren hiện nay, chỉ trong vòng năm năm tổ chức ba cuộc
trưng cầu dân ý. Cùng với việc cải tổ Viện Quý Tộc và tản quyền cho các địa
phương có thể nói là thời gian mười năm trước Brexit là thời gian dân chủ nhất
của nước Anh. Nhưng kết quả những hành động này chỉ dẫn đến môt sự khinh thị của
dân đối với nhà nước chứ không hề làm tăng niềm tin của họ vào nhà nước. [qd]
No comments:
Post a Comment