Cuộc
cách mạng công nghệ đang diễn ra trong lĩnh vực tình báo
Anthony Vinci - Foreign
Affairs
Nguyễn Thanh Hải biên dịch
14/09/2020
http://nghiencuuquocte.org/2020/09/14/cuoc-cach-mang-cong-nghe-dang-dien-ra-trong-linh-vuc-tinh-bao/
Trí
tuệ nhân tạo và các hệ thống tự hành sẽ thay đổi hoạt động tình báo như thế
nào?
.
Trong suốt chiều dài lịch
sử, con người vẫn luôn theo dõi lẫn nhau. Để tìm hiểu những gì người khác đang
làm hoặc dự định làm, người ta giám sát, theo dõi và nghe trộm bằng cách sử dụng
các công cụ và không ngừng cải tiến chúng, tuy vậy nó không bao giờ thay thế được
con người. Trí tuệ nhân tạo (AI) và các hệ thống tự động đang thay đổi tất cả
những điều đó. Trong tương lai, máy móc sẽ theo dõi máy móc để biết máy móc
khác đang làm gì hoặc dự định làm gì. Công việc tình báo vẫn sẽ bao gồm đánh cắp
và bảo vệ bí mật, nhưng cách thức thu thập, phân tích và phổ biến những bí mật
đó về cơ bản sẽ khác.
Các nhà tương lai học về
quân sự cũng nhận ra một sự thay đổi lớn tương tự và một số người đã gọi sự trỗi
dậy của Trí tuệ nhân tạo (AI) và các hệ thống vũ khí tự hành là một “cuộc
cách mạng trong lĩnh vực quân sự”. Tương tự, đây cũngcó thể gọi là một “cuộc
cách mạng trong lĩnh vực tình báo”. Thông qua cuộc cách mạng sắp tới, máy móc sẽ
không chỉ là công cụ để thu thập và phân tích thông tin. Chúng sẽ có thể tự xử
lý thông tin tình báo, tự ra quyết định và thậm chí nhắm mục tiêu tấn công vào
các hoạt động tình báo của các hệ thống máy móc khác. Mối quan tâm cuối cùng của
những cỗ máy này vẫn sẽ là các mối quan hệ chính trị, xã hội, kinh tế và quân sự
của con người nhưng hoạt động tình báo do máy móc thực hiện sẽ hoạt động với một
tốc độ, quy mô và độ phức tạp mà hoạt động tình báo do con người tự đảm nhiệm sẽ
không thể nào sánh kịp. Cuộc cách mạng về tình báo mang tính tất yếu không thể
đảo ngược. Quá trình đổi mới và cạnh tranh trong lĩnh vực công nghệ là động lực
dẫn đến cuộc cách mạng trên phạm vi thế giới. Cộng đồng tình báo Hoa Kỳ cần phải
đón nhận cuộc cách mạng và chuẩn bị cho một tương lai bị thống trị bởi AI, nếu
không sẽ có nguy cơ mất đi lợi thế cạnh tranh.
Sự lên ngôi của hoạt động tình
báo do máy móc đảm nhiệm
Các cuộc cách mạng không
tự dưng mà có. Nguồn gốc của nó bắt nguồn từ thế kỷ 20, khi các công nghệ mới
như viễn thông và máy tính ra đời khiến cho các kỹ thuật và phương pháp tình
báo được nâng lên một tầm tinh vi mới. Con người vẫn là chủ thể của hoạt động
tình báo nhưng thay vì tận mắt quan sát, nghe lén bằng chính đôi tai và phân
tích, dự đoán bằng trí óc của mình, con người đã sử dụng các cảm biến và công cụ
tính toán ngày càng mạnh mẽ để nâng cao khả năng của mình.
Trong 20 năm qua, xu hướng
này đã tăng tốc, dẫn đến lượng dữ liệu sẵn có cho các cơ quan tình báo tăng lên
nhanh chóng. Các loại cảm biến thương mại và những loại không phổ biến cho người
dân như các chương trình tự động (bot) trên không gian mạng, máy bay không người
lái tự hành hay những vệ tinh nhỏ trên không gian vũ trụ giờ đây tạo ra lượng
thông tin nhiều đến nỗi vượt quá khả năng tự xử lý của con người. Vào năm 2017,
Cơ quan Tình báo Không gian Địa lý Quốc gia Mỹ (NGA) dự đoán rằng lượng dữ liệu
mà các nhà phân tích của họ phải xử lý sẽ tăng gấp một triệu lần trong vòng 5
năm. Quá nhiều dữ liệu được tạo ra trong một khoảng thời gian ngắn đã dẫn đến sự
cạnh tranh khốc liệt để xử lý được tất cả chúng, đây chính là động lực thúc đẩy
việc ứng dụng mô hình tự động hóa, phân tích dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo để
xử lý dữ liệu. Áp lực để không bị bỏ lại phía sau là rất lớn: cơ quan tình báo
của quốc gia nào có thể nhanh chóng xử lý một lượng lớn dữ liệu phức tạp sẽ có
lợi thế hơn những quốc gia không làm được.
Sự chuyển đổi đồng thời
sang các hệ thống tự hành và trí tuệ nhân tạo của quân đội các nước trên thế giới
chỉ làm tăng thêm áp lực cạnh tranh: các cơ quan tình báo cần có khả năng xác định
được và hỗ trợ cho các hệ thống chiến đấu tiên tiến. Hiện tại, quân đội Mỹ đang
vận hành hơn 11.000 hệ thống bay không người lái và nhiều hệ thống dưới nước,
trên mặt đất và cả trong không gian vũ trụ. Ngoài ra, các đơn vị an ninh mạng của
Hoa Kỳ phải đối phó với hàng triệu chương trình tự động (bot) trên các mạng máy
tính toàn cầu cũng như hàng tỷ thiết bị kết nối bằng công nghệ Internet vạn vật
(IoT) hoạt động như các cảm biến thu thập dữ liệu. Những hệ thống đang ngày
càng phát triển này cần có trí thông minh của riêng chúng để vận hành, có nghĩa
là theo thời gian chúng sẽ trở thành bên tiếp nhận chính thông tin tình báo.
Hơn cả một cuộc cách mạng
sẽ là sự chuyển đổi mục tiêu tình báo sang nhắm vào các hệ thống tự hành, nghĩa
là khi máy móc bắt đầu theo dõi và đánh lừa các máy khác. Một kịch bản khả dĩ
trong tương lai có thể liên quan đến một hệ thống trí tuệ nhân tạo có nhiệm vụ
phân tích một câu hỏi cụ thể, chẳng hạn như liệu kẻ thù có đang chuẩn bị cho
chiến tranh hay không. Hệ thống thứ hai do đối thủ vận hành có thể cố tình đưa
ra dữ liệu gây nhiễu để làm giảm khả năng phân tích nhắm vào hệ thống thứ nhất.
Hệ thống thứ nhất thậm chí có thể nhận biết được thủ đoạn này và loại bỏ dữ liệu
sai lạc trong khi vẫn tỏ ra nó đang bị đánh lừa, từ đó đánh lừa lại hệ thống đã
lừa nó. Loại lừa dối giữa gián điệp và gián điệp này luôn là một phần của hoạt
động tình báo nhưng nó sẽ sớm xảy ra giữa các hệ thống máy móc tự hành hoàn
toàn. Trong một vòng thông tin khép kín như vậy, hoạt động tình báo và hoạt động
phản gián có thể diễn ra mà không cần sự can thiệp của con người.
Để hiểu được đâu là nguy
cơ, hãy xem xét một trường hợp tương tự trong lĩnh vực tài chính. Các hệ thống
giao dịch định lượng tốc độ cao (high-speed quantitative trading systems) sử dụng
các thuật toán để phát hiện những thay đổi trên thị trường chứng khoán toàn cầu,
phân tích lượng dữ liệu khổng lồ để đưa ra dự đoán và sau đó tự động thực hiện
giao dịch chỉ trong vài micro giây. Con người không thể thực hiện việc này với
lượng lớn dữ liệu trong thời gian nhanh như vậy. Để không bị tụt lại phía sau,
ngay cả những công ty đầu tư lớn nhất cũng ngày càng phải dựa vào các hệ thống
giao dịch định lượng trên máy tính. Để cạnh tranh với nhau, các cơ quan tình
báo cũng sẽ ngày càng phải dựa nhiều hơn vào công nghệ trí tuệ nhân tạo và các
hệ thống tự hành.
Cộng đồng tình báo thay đổi để
thích ứng
Khi máy móc dần đóng vai
trò chính trong việc thu thập, phân tích và xử lý thông tin cũng như trở thành
đối tượng nhắm đến của các hoạt động tình báo, thì toàn bộ cộng đồng tình báo
Hoa Kỳ sẽ cần phải phát triển để theo kịp sự thay đổi. Sự phát triển này phải bắt
đầu với những khoản đầu tư khổng lồ vào lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và công nghệ
tự động hóa, bên cạnh đó là những thay đổi trong cách thức hoạt động cho phép
các cơ quan có thể vừa xử lý lượng dữ liệu khổng lồ vừa chuyển trực tiếp kết quả
xử lý đến các máy móc tự động. Vì trên thực tế, mọi thứ đều được kết nối thông
qua các mạng máy tính và điều này tạo ra một số dạng dữ liệu hoặc tín hiệu điện
từ nên lĩnh vực tình báo tín hiệu (signals intelligence) cần phải là trung tâm
trong sự phát triển của công nghệ trí tuệ nhân tạo. Và lĩnh vực tình báo về dữ
liệu không gian địa lý (geospatial intelligence -GEOINT) cũng vậy. Khi vệ
tinh và các loại cảm biến xuất hiện ngày càng dày đặc, mọi thứ trên trái đất sẽ
sớm bị theo dõi liên tục từ trên cao, một trạng thái mà Trung tâm nghiên cứu và
phát triển hàng không vũ trụ liên bang Mỹ đã gọi là “Trạng thái độc nhất
GEOINT” (GEOINT Singularity). Để có thể xử lý lượng dữ liệu đang được tạo ra,
lĩnh vực tình báo về dữ liệu không gian địa lý cũng như tình báo tín hiệu sẽ cần
phải cải tiến nhanh chóng năng lực trí tuệ nhân tạo của mình.
Cộng đồng tình báo Hoa Kỳ
hiện được chia theo các chức năng khác nhau, thu thập và phân tích các loại
thông tin tình báo rời rạc, chẳng hạn như thông tin dạng tín hiệu hoặc thông
tin về không gian địa lý. Cuộc cách mạng về tình báo có thể sẽ buộc cộng đồng
tình báo phải xem xét lại liệu việc phân chia như vậy có còn hợp lý hay không.
Thông tin điện từ vẫn sẽ là thông tin điện từ cho dù nó đến từ một vệ tinh hay
một thiết bị sử dụng công nghệ Internet vạn vật (IoT). Sự khác biệt về nguồn gốc
không mấy quan trọng nếu không ai nghiên cứu dữ liệu thô và một hệ thống trí tuệ
nhân tạo có thể phát hiện ra các mẫu hình của tất cả dữ liệu ngay lập tức.
Tương tự, sự phân chia giữa tình báo dân sự và tình báo quân sự cũng sẽ bị xóa
mờ vì cơ sở hạ tầng dân sự, chẳng hạn như các hệ thống viễn thông, vẫn có thể
được sử dụng như hệ thống thông tin liên lạc trong quân sự. Với những thực tế
này, việc tách biệt các chức năng tình báo có thể cản trở hơn là hỗ trợ các hoạt
động tình báo.
Cuộc cách mạng về tình
báo cũng có thể đặt ra nhu cầu thành lập các tổ chức mới. Nếu như bản thân con
người từng đóng vai trò chính trong hoạt động tình báo thì sự khác biệt đó giờ
đây thuộc về thiết bị chẳng hạn như một phần mềm, một cảm biến hay một máy bay
không người lái tự hành. Các hoạt động tình báo sẽ ngày càng tập trung vào những
thiết bị này, nghĩa là không chỉ theo dõi bản thân thiết bị mà còn theo dõi các
nhà thiết kế, nhà phát triển và chuỗi cung ứng sản xuất ra chúng. Trong tương
lai gần, việc hiểu biết về trí tuệ nhân tạo, công nghệ tự hành, các chuỗi cung ứng
và vốn đầu tư mạo hiểm sẽ quan trọng như việc hiểu về hệ tư tưởng chính thống của
Hồi giáo trong quá khứ. Hoa Kỳ có thể cần các tổ chức mới để nghiên cứu những
lĩnh vực này. Ở mức tối thiểu, Hoa Kỳ sẽ cần phải mở rộng các đơn vị tình báo
kinh tế và công nghệ hiện có giống như đã từng mở rộng các đơn vị chống khủng bố
sau vụ 11/9.
Khi cộng đồng tình báo
Hoa Kỳ phát triển để theo kịp cuộc cách mạng, việc cần làm song song là phải hạn
chế khả năng phát triển của các đối thủ, cụ thể là làm chậm và ngăn chặn đối thủ
đạt được năng lực làm chủ hệ thống tình báo vận hành bởi máy móc. Việc cản trở
quá trình thiết kế và phát triển các hệ thống tự hành cũng như công nghệ trí tuệ
nhân tạo của đối thủ sẽ ngày càng trở nên quan trọng. Hành động này sẽ phải được
tiến hành bí mật, một số việc sẽ do máy móc đảm nhận. Ví dụ: Hoa Kỳ có thể đưa
dữ liệu sai lạc vào hệ thống máy học của đối thủ để đánh lừa hoặc ngăn chặn hệ
thống AI của đối thủ trở nên mạnh mẽ hơn.
Nhưng cũng giống như Hoa
Kỳ sẽ nhắm mục tiêu vào AI và các hệ thống tự hành của đối thủ, cơ quan tình
báo của đối thủ cũng sẽ nhắm mục tiêu vào các hệ thống của Hoa Kỳ. Do đó, Hoa Kỳ
sẽ cần phải xây dựng các hệ thống phòng thủ mới và áp dụng những hình thức phản
gián mới. Để cạnh tranh, các nhân viên phản gián ngoài con mắt biết phát hiện
thủ đoạn của đối phương như từ trước tới giờ còn cần có chuyên môn về kinh tế
và kỹ thuật hơn bao giờ hết. Nói chung, cuộc cách mạng sẽ làm thay đổi mọi cấp
độ tổ chức của hoạt động tình báo bao gồm các cơ quan phụ trách, việc huấn luyện,
công nghệ, cách thức vận hành và hoạt động phản gián.
Cuộc cách mạng xuất phát từ
con người
Con người có thể không
còn đóng vai trò chủ đạo trong việc thu thập và phân tích thông tin tình báo
nhưng mục tiêu cuối cùng của nó vẫn là tìm hiểu các chính phủ, xã hội và quân đội
do con người lãnh đạo. Hơn nữa, con người sẽ mang lại sự sáng tạo, sự đồng cảm,
hiểu biết và tư duy chiến lược cho hoạt động tình báo mà máy móc khó có thể
sánh kịp trong tương lai gần. Do đó, trưởng các bộ phận, nhân viên quản lý mạng
lưới tình báo và nhà phân tích dữ liệu vẫn sẽ có những vai trò quan trọng trong
tương lai, tuy vậy bản chất công việc của họ có thể thay đổi.
Cuộc cách mạng đang diễn
ra và cộng đồng tình báo cần phải chấp nhận và thích ứng với nó. Việc không
thích ứng trước sự thay đổi đã từng gây ra thảm họa trong quá khứ. Ví dụ như
khi Hải quân Hoa Kỳ không chịu thay thế thiết giáp hạm bằng tàu sân bay thời điểm
trước Thế chiến II. Các thủy thủ dẫn dắt Hải quân đã không nắm bắt được những
tiến bộ lớn trong sức mạnh không quân, thứ đã cho phép Nhật Bản mở cuộc tấn
công tàn khốc vào Trân Châu Cảng. Tương tự, cộng đồng tình báo chủ yếu do các
nhân viên tình báo điều hành, họ không phải lúc nào cũng có thể nhìn thấy (hoặc
chấp nhận) xu hướng tất yếu của hoạt động tình báo do máy đảm nhận. Các cơ quan
tình báo phải phá bỏ các rào cản văn hóa, đầu tư vào công nghệ và dành toàn bộ
nguồn lực cho hoạt động tình báo sử dụng trí tuệ nhân tạo và tự động hóa. Nếu
Hoa Kỳ không chịu thay đổi, có nguy cơ Trung Quốc hoặc các đối thủ khác sẽ đạt
được lợi thế về mặt công nghệ mà Washington sẽ không thể vượt qua.
----------------------------
Anthony Vinci nguyên là Giám đốc công nghệ và Phó
giám đốc phụ trách nguồn lực của Cơ quan Tình báo Không gian địa lý Quốc gia
Hoa Kỳ.
Nguồn:
The
Coming Revolution in Intelligence Affairs”
How Artificial
Intelligence and Autonomous Systems Will Transform Espionage
August 31, 2020
No comments:
Post a Comment