Gaia
Vince
BBC Future
19/05/2020
Các nhà khoa học giỏi nhất thế giới đang được huy động
trong nỗ lực giống như trong thời chiến để chiến đấu với dịch virus corona,
nghĩ ra vắc-xin, phương pháp điều trị, mô hình hóa các kết quả và tư vấn cho
chúng ta.
Đây là một bệnh lây lan
nhanh, được sinh ra trong xã hội toàn cầu hóa của chúng ta trong Thế kỷ 21, và
nó đòi hỏi phải có khoa học dựa trên bằng chứng mới nhất.
Về điều này, tất cả chúng
ta đều đồng ý, bởi vì chúng ta là những người có lý trí trong Thế kỷ 21, phải
không?
Donald Trump: 'Giải
phóng Michigan!', 'Giải phóng Virginia!'
Điều này chỉ đúng đến một
lúc nào đó.
Khảo sát công chúng Mỹ
cho thấy thái độ đối với cùng loại virus chết chóc trong cùng một quốc gia bị
tác động mạnh mẽ bởi xu hướng bỏ phiếu theo đảng phái.
Các cử tri Cộng hòa nhìn
chung ít lo ngại hơn về Covid-19 so với Đảng Dân chủ, và có vẻ như ít muốn ủng
hộ các biện pháp phong tỏa ngăn chặn sự lây lan của virus.
Vì Covid-19
là bệnh truyền nhiễm, nó phụ thuộc hoàn toàn vào vật chủ là con người để chuyên
chở và lây lan - càng nhiều người giao lưu như thường thì càng có nhiều cơ hội
cho virus sinh sôi và lan truyền, và dịch bệnh ngày càng tồi tệ hơn.
Đó là khoa
học. Chỉ bằng cách nhận ra mối đe dọa của dịch bệnh thì mọi người mới được huy
động để thay đổi hành vi xã hội bẩm sinh của họ, để làm chậm sự lây lan của nó
một cách chủ động.
Tuy nhiên, trong khi các chuyên gia khoa học và y tế ở Mỹ và trên thế
giới cảnh báo công chúng về những rủi ro và nhắc lại tầm quan trọng của việc giữ
khoảng cách xã hội, thì một số nhà lãnh đạo thế giới không có kiến thức khoa
học đã tìm cách coi thường nguy cơ trong nhiều tháng liền.
Các hạn chế đi lại mang
tính phòng vệ đã được chính quyền hầu hết các bang ở Mỹ áp đặt, dẫn đến việc
đóng cửa các hoạt động kinh doanh và tỷ lệ thất nghiệp cao kỷ lục.
Đáp lại, tại hơn chục
bang đã xảy ra các cuộc biểu tình phản đối phong tỏa, khi mà hàng ngàn người Mỹ
bảo thủ và cực hữu đòi dỡ bỏ các hạn chế đi lại, bất chấp cái giá phải trả về y
tế.
Tại các
bang Michigan và Washington, những người biểu tình ủng hộ ông Trump đã cầm súng
kêu gọi giành 'tự do' trước 'sự chuyên chế' của các thống đốc.
Với sự ủng
hộ của họ, Tổng thống Donald Trump đã viết trên Twitter: 'Giải phóng
Michigan!', 'Giải phóng Virginia!', và gọi người biểu tình là những người 'yêu
nước Mỹ'.
Hồi cuối tháng Tư, hàng
trăm người biểu tình đã xông vào Tòa nhà Quốc hội bang Michigan và đe dọa Thống
đốc, người đã gia hạn lệnh ở nhà của tiểu bang thêm hai tuần cho đến ngày 15/5.
Michigan là một trong những
tiểu bang bị dịch bệnh ảnh hưởng nặng nề nhất, với số các ca tử vong mỗi ngày
trong tuần đầu tháng Năm là hơn 100 ca.
Vào ngày 1/5, một ngày
sau cuộc biểu tình mà khi đó những người xuống đường đã gọi Thống đốc Michigan
là 'bạo chúa' và đánh đồng bà với Hitler, ông Trump đã mô tả những người biểu
tình này là 'những người rất tốt'.
Trong khi đó, trên khắp
nước Mỹ, các cuộc biểu tình chống phong tỏa vẫn tiếp tục.
Tính đảng phái
Những cuộc biểu tình này,
vốn đi ngược lại lời khuyên của cơ quan y tế về việc áp dụng các biện pháp nhằm
giảm tốc độ lây lan, xảy ra vào lúc các thuyết âm mưu về virus được lan truyền
rộng rãi, bao gồm đó là
trò lừa bịp (có 13% người Mỹ được thăm dò đồng ý), hoặc con virus này đã được cố tình tạo
ra trong một phòng thí nghiệm vũ khí của Trung Quốc (một giả thuyết được
gần một nửa dân số Mỹ tin), và công nghệ không dây 5G bằng cách nào đó đã lan truyền virus.
Những giả thuyết như vậy
đã được thúc đẩy và lan truyền bởi một số chính trị gia bảo thủ nổi bật và các
nhà hoạt động cực hữu, trong đó có Thượng nghị sĩ Cộng hòa Tom Cotton.
Và nghiên cứu cho thấy rằng
ngay cả những người thông minh cũng có thể tin vào những thuyết âm mưu như vậy,
nếu chúng được diễn đạt đúng cách.
"Nếu chúng ta có tính đảng phái cực độ như ở Mỹ,
thì nó sẽ giống như một rừng cây khô và chỉ cần một que diêm để đốt cháy nó và
gây ra vấn đề," ông Jay van Bavel,
phó giáo sư tâm lý học tại Đại học New York, nói.
"Đó là những gì chúng ta đã thấy trong vài
tháng qua ở Mỹ, khi mà ông Trump lúc đầu không nghiêm túc nhìn nhận con virus,
và truyền thông cánh hữu - như Fox News - đã hạ thấp mối đe dọa của đại dịch
trong thời gian dài để bảo vệ cơ hội đắc cử của ông Trump. Do đó, chúng ta có
công thức cho sự khác biệt trong niềm tin."
Như các cuộc thăm dò đã
chỉ ra, ngay từ hồi tháng Hai thì thái độ của người Mỹ đối với nguy cơ Covid-19
gắn chặt với xu hướng bỏ phiếu, với những người Cộng hòa ít lo ngại hơn nhiều về
dịch bệnh.
Văn hóa bộ lạc ảnh hưởng
đến cách mọi người nhìn nhận thế giới nhiều hơn là tác động của thực tế.
Hãy xem biến đổi khí hậu
do con người gây ra mà vốn có sự đồng thuận khoa học gần như nhất trí trên toàn
cầu.
Vấn đề này cũng chia rẽ
người Mỹ, nhưng theo một cách không thể ngờ: các cử tri Dân chủ và Cộng hòa
càng có trình độ học vấn cao, niềm tin của họ vào biến đổi khí hậu càng khác xa
nhau.
Trong số những người Cộng
hòa chỉ học hết trung học, có 23% cho biết họ rất lo lắng về biến đổi khí hậu.
Nhưng trong số những người Cộng hòa có trình độ đại học, con số đó chỉ là 8%.
Điều này có vẻ phản trực
giác, bởi vì những người Cộng hòa có học vấn tốt hơn có nhiều khả năng hiểu được
sự đồng thuận khoa học hơn.
Nhưng khi nói đến dư luận,
biến đổi khí hậu không phải là vấn đề khoa học, nó là vấn đề chính trị. Khoa học
biến đổi khí hậu tương đối mới và phức tạp về mặt kỹ thuật, và nhiều người Mỹ
chấp nhận ý kiến của các nhà lãnh đạo của họ: giới tinh hoa chính trị.
Ngay cả khi những người Cộng
hòa có học vấn tốt hơn có thể tiếp cận nhiều hơn những thông tin khoa học về biến
đổi khí hậu, họ cũng tiếp xúc nhiều hơn với các thông tin mang tính đảng phái về
vấn đề này, và điều này quan trọng hơn.
"Chúng ta đã trải qua ba năm mà người Mỹ tranh
luận về những cảm nhận khác nhau về thực tế: chẳng hạn, quy mô của đám đông tại
lễ nhậm chức của ông Trump so với lễ nhậm chức của ông Obama. Thật dễ dàng để
cho qua việc này vì nó không gây hậu quả gì. Nhưng giờ đây chúng ta có một con
virus gây ra rủi ro rất lớn cho sức khỏe của con người," van Bavel nói.
"Và những rủi ro này gây ra hậu quả phi đảng
phái bởi vì hầu hết mọi người đều có thân nhân hay làm việc với ai đó thuộc đảng
phái chính trị khác. Nếu họ tiếp xúc với virus và nhiễm bệnh, họ sẽ khiến bạn gặp
rủi ro. Cho nên có lý do mạnh mẽ để đi tìm cách giải quyết vấn đề này."
Bị cảm xúc dẫn dắt
Do chúng ta đã tiến hóa về
mặt văn hóa để có được kiến thức và niềm tin của mình chủ yếu thông qua việc
sao chép người khác với độ chính xác cao thay vì bằng cách sáng tạo (bằng cách
xem xét bằng chứng và tự quyết định cho mình), chúng ta dễ bị tổn thương trước
việc sao chép những mô hình không đáng tin cậy. Tệ hơn nữa, vì chúng ta đã học
cách coi trọng cách giải thích lý tính hơn là cách nhìn nhận chủ quan đối với
các vấn đề khoa học, chúng ta có thể bị làm cho ảnh hưởng để tin rằng những ý
kiến chúng ta sao chép là lý tính, vì vậy khó mà thay đổi chúng hơn.
Bất chấp các chuẩn mực của
chúng ta về lý tính và ra quyết định dựa trên bằng chứng vốn đã phát triển
trong nền văn hóa, sự tiến hóa sinh học của chúng ta đã không theo kịp và nhận
thức của chúng ta tiếp tục bị cảm xúc dẫn dắt.
Vấn đề không nhất thiết
là chúng ta sử dụng phần cảm xúc của não bộ nhiều hơn phần lý trí khi ra quyết
định, mà là chúng ta tự huyễn hoặc.
Ngay cả các chuyên gia
cũng có xu hướng thiên kiến và điều này có nghĩa là họ gây ra những sai lầm đắt
giá: những định kiến phi lý mang tính hệ thống trong các tổ chức, nơi mà mọi
người tin rằng bản thân họ không kỳ thị chủng tộc, không kỳ thị giới và nắm giữ
các vị trí hiện có nhờ vào năng lực hơn là vận may.
Thông thường, vai trò
chính của lý trí trong việc ra quyết định thực ra không phải là đi đến quyết định
mà là có thể trình bày quyết định như điều gì đó duy lý.
Một số nhà tâm lý tin rằng
chúng ta chỉ sử dụng lý trí nhằm quay ngược lại biện hộ cho các quyết định của
mình và chủ yếu dựa vào bản năng không có gì hoài nghi của chúng ta để đưa ra
quyết định.
Có thể là bản năng vô thức
của chúng ta - bất chấp thiên kiến và định kiến nhận thức - có năng lực duy lý
hơn là tâm trí xử lý suy nghĩ logic của chúng ta. Rất ít người trong chúng ta
có khả năng phân tách hoàn toàn lập luận chủ quan và khách quan của mình trong
quá trình ra quyết định - đây là một trong những hứa hẹn của trí tuệ nhân tạo.
Tác động của nỗi sợ
Việc ra quyết định bị yếu
tố sinh học và môi trường xã hội của chúng ta tác động.
Hãy xem ảnh hưởng tâm lý
và sinh lý của nỗi sợ: người ta đã chứng minh rằng những người bỏ phiếu bảo thủ
có xu hướng có amygdala - trung tâm sợ hãi của não - lớn hơn.
Trong một nghiên cứu, một
đứa trẻ ba hoặc bốn tuổi càng sợ hãi nhiều chừng nào phòng thí nghiệm, thì thái
độ chính trị của chúng sẽ càng bảo thủ chừng đó hơn 20 năm sau.
Tác động của nỗi sợ là
ngay lập tức: trong một nghiên cứu, khi những người có tư tưởng tự do gặp mối
đe dọa thể xác thì thái độ chính trị và thái độ xã hội của họ tạm thời trở nên
bảo thủ hơn.
Các chính trị gia bảo thủ
và các nhà chiến lược bầu cử khai thác điểm này, nhằm mục đích đẩy cao nỗi sợ
nhập cư của cử tri, chẳng hạn như bằng cách so sánh người nhập cư với vi trùng,
nhằm vào các động cơ sâu thẳm của chúng ta vốn đã trải qua tiến hóa sinh học để
tránh bị lây nhiễm và bệnh tật.
Trong một nghiên cứu,
trong đại dịch cúm H1N1, các nhà nghiên cứu đã nhắc nhở mọi người về sự nguy hiểm
của virus cúm rồi hỏi về thái độ của họ đối với nhập cư, sau đó hỏi họ đã tiêm
phòng cúm chưa. Những người chưa được tiêm ngừa cúm có khả năng chống nhập cư
nhiều hơn những người cảm thấy ít bị đe dọa.
Nhưng trong một nghiên cứu
tiếp theo, các nhà nghiên cứu cho mọi người một chút nước rửa tay khô sau khi cảnh
báo về cúm. Thiên kiến đối với dân nhập cư không còn nữa.
Làm cho mọi người cảm thấy
an toàn đã thay đổi quyết định bỏ phiếu của họ theo hướng tự do hơn. Khi các
nhà nghiên cứu yêu cầu mọi người tưởng tượng mình hoàn toàn bất khả xâm phạm
trước mọi tác hại, các cử tri Cộng hòa trở nên có lập trường tự do hơn rất nhiều
trong thái độ xã hội của họ đối với các vấn đề như phá thai và nhập cư. Trong
lý trí là tràn ngập cảm xúc.
Sự chế ngự từ thực
tế
Ý nghĩa xã hội của hầu hết
các quyết định cũng là yếu tố quan trọng trong việc ra quyết định. Trong các
tình huống rất đảng phái, những người không tuân theo các quy tắc xã hội bằng
cách bỏ phiếu chống lại đa số có nguy cơ bị tẩy chay. Do đó, trong những trường
hợp như vậy, có thể sẽ hợp lý hơn để các cá nhân đi ngược lại lý trí, vì chúng
ta có động cơ duy trì gắn kết xã hội và mạng lưới hỗ trợ hơn là để mình đúng một
cách khách quan.
Dù xu hướng chính trị của
bạn là gì, Covid-19 sẽ không phân biệt vì nó vẫn kiếm thêm lá phổi để lây nhiễm.
Tuy nhiên, do sự lây nhiễm
tự thân nó mang tính xã hội, nên có thể có những người vẫn tiếp tục giao lưu mà
không hề sợ hãi rằng tình hình dịch bệnh có thể còn trở nên tồi tệ hơn.
Nói cách khác, lịch sử bỏ
phiếu cũng có thể ảnh hưởng đến số phận của bạn.
Không cần phải nói, xu hướng
chung liên kết khuynh hướng chính trị với thái độ đối với virus corona không phải
là toàn bộ câu chuyện.
Chẳng hạn như ông Rand
Paul, Thượng nghị sĩ bang Kentucky, đã tình nguyện vào bệnh viện để giúp đỡ các
bệnh nhân trong cuộc khủng hoảng, bao gồm những người mắc virus corona, sau khi
chính ông cũng đã mắc bệnh.
Và có dấu hiệu mọi thứ
đang thay đổi.
Khi các cử tri Cộng hòa
tiếp xúc với những người mà họ biết bị ảnh hưởng bởi virus, họ sẽ xem mối đe dọa
nghiêm túc hơn - điều được gọi là 'sự chế ngự từ thực tế'.
"Động cơ của mọi người để đi theo đảng phái bắt
đầu trở nên bị đè bẹp trước giá trị của việc phải chính xác và giữ sự khỏe mạnh
đối với bản thân và gia đình họ", van Bavel nói.
Cuộc thăm dò gần đây nhất cho thấy hơn 95% cử tri Dân chủ ủng hộ các biện
pháp giãn cách xã hội, và phần lớn cử tri Cộng hòa cũng vậy - hơn 80% - cho nên
khoảng cách ngày càng thu hẹp.
Do đó, có lẽ không có gì
đáng ngạc nhiên khi tỷ lệ ủng hộ của ông Trump đã giảm trong cùng thời gian mà
tỷ lệ ủng hộ đối với các thống đốc bang, những người đã đứng ra lãnh đạo đối
phó với virus, tăng lên.
Bài
tiếng Anh đã đăng trên BBC
Future.
No comments:
Post a Comment