Bác
Sĩ Nguyễn Ý Đức
May 7, 2020
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm
di cư từ Bắc vô Nam, lang tôi xin ra ngoài lãnh lực y học, ghi lại vài hàng về
biến cố đau buồn này. Để khỏi “Lạc Bất Tư Thục,” ham vui mà quên cả quê hương,
bản quốc… Một quê hương còn nhiều tai ương.
Tàn nhẫn, bẩn thỉu
và sợ hãi, người dân miền Bắc Việt Nam buộc phải thoát khỏi cuộc đàn áp của Cộng
Sản. Từ Tháng Tám, 1954, đến Tháng Năm, 1955, Hải Quân Hoa Kỳ đã giúp chở hàng
trăm ngàn người dân di cư đến miền Nam tự do ở Sài Gòn. (Hình: Daniel M.
Redmond/usni.org)
Đang giờ học Việt văn của
Giáo Sư Nguyễn Tường Phượng thì tôi được nhân viên Phòng Giám Học kêu xuống gặp
người nhà. Tôi học lớp Đệ Tam ban A Trung Học Chu Văn An ở Hà Nội.
Tới văn phòng, tôi thấy bố
tôi đang ngồi chuyện với thầy Vũ Ngô Xán và thầy giám học Vũ Đức Thận. Bố tôi
quen với hai cụ qua người anh họ tôi là Vũ Ngọc Các, chủ nhiệm báo Dân Chủ ở đường
Gia Long, Hà Nội. Bố cho tôi hay là đã xin phép hai cụ để cho nghỉ học sớm và
theo ông về quê có việc.
Hai bố con về nhà tôi trọ
để thu xếp đồ đạc rồi ra bến xe đò để về tỉnh Hải Dương. Trên đường đi, bố tôi
cho hay là phải di cư vào Nam ngay vì Việt Minh sắp tiếp thu Hà Nội và các tỉnh
ở bên đây sông Bến Hải.
Vào thời gian đó, tình
hình chiến sự ở miền Bắc sôi động ác liệt mạnh mẽ. Đi đâu cũng nghe nói thấy sự
rút lui của quân viễn chinh và quân đội quốc gia. Khi đó phương tiện là đài
phát thanh và mấy tờ báo chứ đâu có Internet, truyền hình… như ngày nay, nên
tin tức rất hiếm hoi, đôi khi chỉ là truyền khẩu.
Rất nhiều dân chúng ở Hà
Nội và các tỉnh lỵ miền Bắc cũng hốt hoảng và sửa soạn thu vén di cư vào Nam. Ủy
Ban Bảo Vệ Bắc Việt đã được thành lập song hành với Ủy Ban Di Cư.
Người dân miền Bắc
Việt Nam di cư trên chiến hạm USS Bayfield để được đưa vào Sài Gòn, 3 Tháng
Chín, 1954, tại Hải Phòng. (Hình: history.navy.mil)
Đường phố ngổn ngang những
vật dụng mang ra bán. Những tủ chè, sập gụ, những lư đồng, bình sứ rồi quần áo
gia dụng. Thôi thì đủ thứ. Ai ai cũng cố bán tống bán tháo để có chút vốn di
cư. Đó là cuộc di cư vĩ đại của trên dưới một triệu đồng bào miền Bắc bỏ mồ mả
cha ông chỉ vì không chấp nhận chế độ Cộng Sản ngoại lai. Họ đã nghe nói cũng
như chứng kiến sự khắc nghiệt của chính quyền đối với dân chúng do chế độ kiểm
soát. Những đấu tố, những thủ tiêu không nương tay, những kiểm soát theo dõi rất
khắt khe.
Bố tôi làm việc tại Tòa Tỉnh
Trưởng Hải Dương. Ông cũng chỉ là nhân viên phù động do quen biết chứ không phải
là công chức chính ngạch. Xuất thân con nhà có chút ruộng đất, nên trước chiến
tranh ông chỉ giao du hưởng thụ. Ông nội mua cho bố tôi chức Hội trong làng,
nên cũng có một vài vai vế với chốn đình trung và ngoài xã hội. Theo anh tôi
thì ông cụ cũng “phá gia chi tử” lắm. Thời đó làm gì có nhiều ngân hàng, chi
phiếu thẻ tín dụng nên đỏ đen hết tiền mặt là văn tự ruộng đất nhà cửa được đưa
ra để cầm bán.
Gia đình chúng tôi phải bỏ
quê lên tỉnh làm ăn vì không thích hợp với “Kháng Chiến Địa Phương.” Ông bác ruột
bị thủ tiêu chỉ vì giữ chức Cửu trong xã. Anh tôi khi đó mới 12 tuổi không sớm
băng đồng trong đêm chạy lên huyện Nam Sách thì cũng bị bắt. Chồng của cô tôi bị
bắt nhầm vì tưởng là bố tôi. Ông cụ đã về vùng tề từ mấy ngày trước. Lý do là họ
nhà tôi làm chủ một số điền thổ trong tổng và được liệt kê vào hạng “cường hào
ác bá.”
Hai bố con về tỉnh để sửa
soạn ra đi. Chúng tôi phải xuống Hải Phòng để đi tàu thủy, vì khi đó chương
trình di cư đang ở cao điểm cho nên di tản bằng đường hàng không trở nên hiếm
hoi.
Những ngày nấn ná sửa soạn
bán nhà cửa đồ đạc chờ ngày lãnh giấy lên tàu là những ngày rất dao động. Họ
hàng dưới quê lên thăm hỏi, chia tay. Nhiều người nỉ non quyến dụ. Nào là đất
nước thanh bình đến nơi rồi, tại sao không ở lại mà hưởng “tự do, hạnh phúc?” Rằng
chính phủ rất khoan hồng, mọi người đều được tiếp tục làm việc như trước.
Bốn thủy thủ của
chiến hạm USS Bayfield cầm biểu ngữ đón chào người dân di cư lên tàu vào Nam tại
Hải Phòng, 3 Tháng Chín, 1954. (Hình: history.navy.mil)
Một bà bạn của gia đình
có cô con gái rượu thì “cháu ở lại đi, mai mốt đất nước thống nhất thì tha hồ
vào thăm Sài Gòn.” Ông chú ruột làm phát ngân viên cho Bảo Chính Đoàn được gia
đình vợ hai móc nối ở lại, “cứ mang hết tiền quỹ về xây dựng sự nghiệp, giúp
làng xóm, tha hồ mà sướng.” Nhưng bố tôi nhất quyết ra đi vì đã phần nào hiểu
rõ bản chất của chế độ. Bà vợ kế của bố tôi ở lại với một đứa con gần hai tuổi
và bụng chửa hơn bốn tháng, vì bố mẹ ở dưới quê muốn gắn bó với quê cha đất tổ.
Ngày ngồi trên xe lửa từ
Hải Dương xuống Hải Phòng mới thực vất vả và chứng kiến nhiều bi hài kịch. Tàu
đậu ở nhiều ga dọc theo đường số năm để lấy thêm khách, mà hầu hết là xuống Hải
Phòng để vô Nam bằng tàu thủy há mồm. Cán bộ đia phương được tung ra để gây trở
ngại ngăn cản lên tàu. Cũng có những chửi mắng “đi liếm chân cho đế quốc làm Việt
gian cho giặc Pháp.” Rồi vứt đồ, đánh đập cho bõ ghét.
Làm thân rau muống Bắc Kỳ
di cư ở trong Nam gần ba mươi năm, người dân miền Bắc đã đóng góp nhiều cho mảnh
đất quê hương thứ hai. Và cũng đã hy sinh nhiều xương máu chống lại sự bành trướng
của chủ nghĩa Cộng Sản. Nhưng kết quả là chỉ tránh được hiểm họa Đỏ cho một phần
nhỏ của thế giới với cái giá là một lần nữa lại tị nạn vào phần tư cuối của thế
kỷ hai mươi.
Từ Bắc Kỳ di cư tới tị nạn
chính trị thấm thoát mà đã nửa thế kỷ, năm mươi năm, mười lăm ngàn hai trăm năm
ngày dài đằng đẵng.
Về quê hương thì vẫn thấy
ngậm ngùi chua xót. Những người vì hòa bình thống nhất lại miền quê thì đời sống
không khác gì mấy, so với 50 năm về trước. Có chăng là ngọn đèn điện, chiếc ti
vi, chiếc xe gắn máy. Vẫn quần quật giật gấu vá vai lam lũ. Vẫn chân đất với
bùn lầy nước lỗ chân trâu. Ngày kiếm được 50 xu Mỹ là mừng rồi.
Ông chú đã sớm ra người
thiên cổ, vì những nhiếc móc theo địch, hại nước, hại dân, tịch thu tài sản. Bà
thím già nua, kèm nhèm quệt nước mắt với bầy cháu thò lò mũi xanh thì: “Giá mà
ngày đó chú thím và các em theo chân bố cháu.” Cô em gái lao động ở Đông Âu để
dành được chút tiền mở hàng xén cho qua ngày. Mấy đứa cháu chưa bao giờ biết mặt
thì “chúng cháu theo giải phóng vào kiếm các chú thì các chú đã ra đi, không đợi
chúng cháu đi với.”
Người di cư lên tàu
há mồm tại Hải Phòng để được đưa vào Nam theo chiến dịch “Passage to Freedom” của
Hải Quân Hoa Kỳ năm 1954. (Hình: US Navy Department)
Báo chí trong nước phản ảnh
đầy rẫy những than phiền của dân chúng cũng như tuyên bố của viên chức chính
quyền các cấp về tham nhũng cửa quyền, bất công xã hội, thất nghiệp, tệ đoan xã
hội. Đã có những chương trình, đề nghị nửa vời, cầm chừng, trồi sụt thấy tháng
như của bà mẹ nạ dòng sắp vào tuổi mãn kinh.
Khoảng cách giàu nghèo
sao mà quá chênh lệch. Một bữa “chiêu đãi” cá sống Việt Trì bảy món với rượu
ngoại của người giàu quyền thế tốn công quỹ quốc gia dành cho y tế cả dăm bảy
trăm Mỹ kim như không. Trong khi đó thì ngân sách quốc gia dành cho y tế chỉ có
5 Mỹ kim mỗi năm cho một đầu người. Tư bản Mỹ thực phí phạm, bỏ ra những 2,000
tiền đô xanh.
Với cộng đồng tị nạn thì
theo nhiều người, cũng có nhiều điều tưởng như cần làm, cần thay đổi, thích
nghi. Chẳng hạn, có ý kiến cho rằng, sống trên đất nước mà quyền tự do, dân chủ
được tôn trọng tối đa, chẳng lẽ lại cứ mãi mãi “Con đường của ta là duy nhất
đúng. Mọi phương thức khác là chao đảo, nịnh bợ.”
Hầu hết những người theo
bố mẹ làm Bắc Kỳ di cư rồi đứng mũi chịu sào đưa gia đình đi tị nạn chính trị ở
ngoại quốc đang ở vào giai đoạn cuối của cuộc đời. Hôm nay ngồi lại với nhau,
ôn lại ngày lẽo đẽo lên tàu há mồm vô Nam dọc theo bờ biển chữ S, rồi bồng bế
con cái di tản bằng phương tiện tiến bộ hơn, mà thấy nao nao, ướt mắt…
Tương lai như chìm dần.
Thôi đành trông cậy ở thế
hệ đến sau, trong và ngoài nước, nhìn rõ thực tại, nhiệt huyết hơn, thẳng thắn
hơn, công bằng hơn.
Để xây dựng cộng đồng uy
tín, quê hương có tự do dân chủ cụ thể, thực tế chứ không chỉ trên giấy tờ, văn
bản. Dù là tương đối. Vì có còn hơn không.
Texas, Vu Lan 2004. (Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức) [qd]
No comments:
Post a Comment