Thảo
Ngọc
05/05/2020
Ngày 30 tháng Tư năm 1975
là một ngày lịch sử của dân tộc Việt Nam. Nó chấm dứt cuộc chiến “Nồi da xảo thịt”,
“Huynh đệ tương tàn”, nó bức tử một nhà nước có chủ quyền đã tồn tại hơn 20 năm
trước. Đó là nhà nước Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975).
Xung quanh ngày 30 tháng
4 này có nhiều chuyện hài, nhưng không phải mang lại tiếng cười sảng khoái hài
hước dân gian, mà là những chuyện hài đầy mỉa mai khinh bỉ và đáng bị lên án của
một số kẻ có chức có quyền, có địa vị của “Bên thắng cuộc”, đã bịa đặt và xuyên
tạc lịch sử một cách trắng trợn, trơ trẽn và vô liêm sỉ, vơ thành tích của kẻ
khác làm thành tích của mình, để từ đó chui sâu, leo cao lên những nấc thang
quyền lực.
Có thể nói, đây cũng là một
dạng tham nhũng, là tham nhũng thành tích, từ chỗ có thành tích cùng với nghệ
thuật lươn lẹo bậc thầy, một số họ đã nhờ đó tô vẽ cho mình ánh hào quang lấp
lánh về những “chiến công hiển hách, vang dội” để lòe bịp thiên hạ và “làm rạng
rỡ trang sử vàng oanh liệt” của kẻ chiến thắng.
Trước hết là câu chuyện
trưa ngày 30/4/1975, cánh cổng dinh Độc Lập bị xe tăng húc đổ. Và nếu có thì đó
chiếc xe tăng nào?
Sau năm 1975, khi quan hệ
giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc trở nên căng thẳng, vì Việt Nam ngả về
phía Liên Xô. Vì vậy chiếc xe tăng T54B số hiệu 843 do Liên Xô sản xuất được
cho là chiếc xe đầu tiên húc đổ cánh cổng dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975.
Sau Hội nghị Thành Đô năm
1990, khi quan hệ hai nước Việt Nam và Trung Quốc nồng ấm trở lại, tình hữu nghị
giữa hai nước được dệt bởi “Mười sáu chữ Vàng”, Trung Quốc trở thành người bạn
4 Tốt, và nhất là sau đó Liên Xô tan rã, quan hệ giữa Việt Nam và Nga không còn
khăng khít đầm ấm như xưa, thì người ta lại cho rằng chiếc xe tăng T59 số hiệu
390 do Trung Quốc sản xuất mới là chiếc xe tăng húc đổ cổng dinh Độc Lập trưa
ngày 30/4/1975.
Đến lúc này thì cuộc chiến
tranh giành thành tích của những người lính trên hai chiếc xe tăng này xảy ra
tranh cãi gay gắt, vì ai cũng muốn cho rằng chính chiếc xe tăng bên mình húc đổ
cánh cổng dinh Độc Lập.
Và để làm vừa lòng giữa
hai người anh đã có công viện trợ vũ khí đạn dược, cùng các khí tài quân sự và
quân trang quân dụng cho Việt Nam trong cuộc chiến này và hai nhóm người trên
hai chiếc xe tăng 843 và 390, một giải pháp dung hòa được mở ra. Người ta sắp xếp
bố trí cho chiếc xe tăng T54B số hiệu 843 do Liên Xô sản xuất đã húc đổ cổng phụ
của dinh Độc Lập. Còn chiếc T59 số hiệu 390 do Trung Quốc sản xuất thì húc đổ cổng
chính.
Sau đó cả hai chiếc xe
tăng này đều được đưa về Hà Nội. Chiếc xe tăng số hiệu 843 được trưng bày trong
Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam (28B Điện Biên Phủ, Ba Đình, Hà Nội). Còn xe
tăng 390 được trưng bày tại Bảo tàng Tăng thiết giáp (Hoàng Quốc Việt, Hà Nội).
Vậy là, nghĩa tình trọn vẹn cả đôi đường, hai ông anh lớn đều có phần, không
còn tranh giành nhau nữa(1).
Về việc xe tăng húc đổ cổng
dinh Độc Lập
Vì trưa ngày 30/4, nội
các Dương Văn Minh đã ngồi chờ tại dinh Độc Lập để “bàn giao chính quyền cho
cách mạng”. Vậy có phải cổng dinh Độc Lập lúc đó đang đóng và bị xe tăng húc đổ
hay không?
Đây là lời của tướng Nguyễn
Hữu Hạnh trong cuốn “Bút ký Nguyễn Hữu Hạnh”, được báo Tuổi trẻ ra hôm
04/10/2019 đăng lại như sau: “Vào trưa ngày 30/4/1975: Tuyên bố của ông
Dương Văn Minh, nhận lệnh (đầu hàng) của tôi được truyền đi trên Đài phát thanh
Sài Gòn hồi 9h30.
Tôi trở về Phủ thủ tướng, nơi đây im vắng không còn
ai dù mới sáng nay có nhiều nhân vật trong chính phủ cũ và mới lần lượt đến để
chuẩn bị ra mắt nội các Vũ Văn Mẫu dự kiến tổ chức lúc 10h ngày 30-4-1975 tại
dinh Độc Lập.
Tôi quay xe đến nhà ông Dương Văn Minh ở số 3 Trần
Quí Cáp (giờ là đường Võ Văn Tần – PV) thì được biết ông Minh và gia đình đã
vào dinh Độc Lập.
Tôi đến dinh. Suốt trên mấy con đường đều im phăng
phắc không một bóng người. Không khí kỳ lạ.
Tôi vào dinh Độc Lập bằng cửa chính, lúc đó cửa mở
toang không lính gác (ông Minh đã cho giải tán hết lính gác dinh).
Đến thềm dinh thì thấy có một xe Jeep và một xe GMC
đầy lính vũ trang. Gặp một trung úy, tôi hỏi thì biết một thiếu tá tiểu đoàn
Lôi Hổ đang gặp ông Minh ở tầng 1. Tiểu đoàn này phụ trách phòng thủ sân bay
Tân Sơn Nhứt (2).
Theo sử gia Trần Gia Phụng:
“Trong thực tế, một người tận mắt chứng kiến. Đó là giáo sư tiến sĩ Đỗ Văn
Thành, hiện nay đang giảng dạy tại đại học Oslo, Na Uy (Norway).
Lúc đó, giáo sư Thành còn trẻ, nhà ở vùng cầu Sài
Gòn, ngồi trên yên sau xe vespa của phụ thân, tò mò chạy theo sau đoàn quân của
CS. Ông Thành đã chứng kiến tận mắt đầy đủ sự việc tại cổng dinh Độc Lập hôm
đó: Sáng 30-4-1975, cổng dinh Độc Lập đã mở sẵn. Xe thiết giáp CS khi đến dinh
Đôc Lập, chạy thẳng vào trong dinh, không có gì trở ngại. Vào bên trong rồi, có
thể do lệnh trên, tài xế lại lái xe thiết giáp chạy trở ra ngoài. Khi đó, lính
CS đóng cổng dinh, quàng dây xích sắt, nhưng không khóa. Xe thiết giáp quay đầu
trở lại, chạy đến tông sập cánh cổng dinh Độc Lập, rồi chạy vào bên trong, để
cho các nhiếp ảnh viên chụp hình và quay phim”(3).
Hơn nữa tại dinh Độc Lập,
lúc đó ngoài nội các của Dương Văn Minh đang ngồi chờ, còn có nữ nhà báo Pháp
Francoise Demulder, người được cho là đã chụp bức ảnh chiếc xe tăng 390 ủi sập
cánh cổng dinh Độc Lập, và nhà báo Đức, ông Borries Gallasch, người đã cho ông
Tùng mượn máy ghi âm.
Nếu cổng dinh Độc Lập đóng thì làm sao những người này có mặt trong dinh được?
Tướng Phạm Xuân Thệ tự nhận thảo
tuyên bố đầu hàng?
Ngày 30/4/2008, báo điện
tử “Đại biểu Nhân dân” có bài: “Ai thảo tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh?“.
Theo đó: “Ông Bàng
Nguyên Thất, chiến sỹ thông tin liên lạc thuộc Đại đội 70, Tiểu đoàn 68, Trung
đoàn 59, là một trong 2 người có mặt vào thời khắc lịch sử trưa ngày 30.4.1975
tại dinh Độc Lập, chứng kiến Tổng thống và Thủ tướng Ngụy quyền Sài Gòn đầu
hàng quân giải phóng…
Lúc đó là 11 giờ trưa. Xe đỗ ở cửa Đài phát thanh
(đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, cách Dinh khoảng 2km), chúng tôi áp giải Dương Văn
Minh và Vũ Văn Mẫu lên phòng thu âm… Đến đây đồng chí Phạm Xuân Thệ mới bắt đầu
thảo lời tuyên bố đầu hàng.
Dương Văn Minh hỏi: Tôi đồng ý đầu hàng, nhưng tôi
nói gì? Đồng chí Thệ trả lời, ông nói theo lời mà tôi sẽ viết. Sau khi viết xong,
đồng chí Thệ đưa cho Dương Văn Minh đọc để ghi âm. Nhưng, chữ viết của ông Thệ
rất khó đọc, Dương Văn Minh nói rằng, “cấp chỉ huy đọc cho tôi ghi lại”. Đồng
chí Thệ đọc cho ông Minh ghi lại lời tuyên bố đầu hàng. Ghi hết thì ông Minh đọc
lời chuẩn để phóng viên người Đức ghi âm. Lúc đó là 11h20 trưa 30.4.
15 phút sau, ông Bùi Văn Tùng, Chính ủy Lữ đoàn 203
mới có mặt tại Đài phát thanh. Sau khi nghe lời tuyên bố đầu hàng xong, đồng
chí Thệ và đồng chí Tùng bàn với nhau: Đã có lời tuyên bố đầu hàng thì phải có
lời chấp nhận đầu hàng. Đồng chí Tùng viết và đọc lời chấp nhận đầu hàng”(4).
Và cuộc chiến xác định ai là người soạn thảo Bản
tuyên bố đầu hàng trưa ngày 30/4/1975 bắt đầu:
Báo Tuổi trẻ ra ngày
28/4/2007 có bài: “Nhân chứng đặc biệt – Kỳ 1: Trung tá Tùng hay đại úy Thệ?”
Theo đó: “Ai là người
đã chấp bút soạn thảo văn kiện đầu hàng cho tướng Dương Văn Minh ngày 30-4-1975
tại Đài phát thanh Sài Gòn? Hơn 20 năm qua, cả ông Bùi Văn Tùng và ông Phạm
Xuân Thệ đều trả lời: Tôi!
Tại TP.HCM, trong nhiều dịp kỷ niệm 30-4, ông Bùi
Văn Tùng thường xuất hiện như một nhân chứng lịch sử. Ông được biết đến như một
sĩ quan cao cấp nhất có mặt tại dinh Độc Lập trưa 30-4-1975. Ông khẳng định vô
số lần rằng chính ông đã thảo bản tuyên bố đầu hàng cho tổng thống Dương Văn
Minh, và chính ông cũng đã đại diện cho quân giải phóng miền Nam chấp nhận sự đầu
hàng đó tại đài phát thanh.
Nhưng từ năm 1985, ông Phạm Xuân Thệ (lúc này đã leo
lên hàm Thượng tá), bắt đầu xuất hiện trên báo chí và các cuộc hội thảo, cũng với
tư cách một nhân chứng lịch sử và cũng khẳng định chắc nịch rằng chính ông đã
trực tiếp thảo văn bản nói trên”.
Cho đến năm 2016, cuộc
chiến vẫn diễn ra hết sức căng thẳng và quyết liệt, chưa phân thắng bại. Theo
trang điện tử của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, ngày 27/04/2016 có đăng bài “Gặp
người cựu chiến binh từng đi trên xe Jeep 15770 áp giải tổng thống Dương Văn
Minh” Theo đó:
“Tại Đài phát thanh, đồng
chí Phạm Xuân Thệ soạn thảo Lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh. Văn bản
đang được soạn thảo thì trung tá Bùi Văn Tùng, Chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 xuất
hiện. Từ đó, đồng chí Bùi Tùng tiếp tục hoàn chỉnh lời tuyên bố đầu hàng cho
Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm để phát trên đài phát thanh. Riêng lời tuyên
bố chấp nhận đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh do đồng chí Bùi Văn Tùng soạn
thảo và trực tiếp đọc trên đài phát thanh”.
Nghĩa là Viện lịch sử Quân sự Việt Nam muốn chia đôi thành tích như vụ
hai chiếc xe tăng nói trên cho đẹp lòng hai bên.
Trong khi cuộc chiến đang
giằng co thì ngày 7/8/2018, báo Kinhtebien online đăng bài của nhà thơ Trần
Đăng Khoa, Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, với bài “Nói lại điều này để
không bàn đến nữa”.
Theo đó: “Sự thật là
anh Tùng thảo thư đầu hàng của Dương Văn Minh và thư chấp nhận đầu hàng của
Quân Giải phóng. Anh Thệ có mặt trong dinh và dẫn Tổng thống Dương Văn Minh ra
xe đi cùng Dương Văn Minh sang Đài phát thanh”.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa kết
luận: “Lý Thông thì thời nào cũng có, Và nhà báo Đức, ông Borries Gallasch,
người có mặt tại dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975 đã phải lên tiếng: Ông Thệ
vào Dinh trước ông Bùi Tùng. Nhưng khi đó trong Dinh rất hỗn loạn. Chẳng ai bảo
được ai. Trật tự chỉ được thiết lập khi ông Bùi Tùng xuất hiện sau đó ít phút.
Và rồi sau đó, ông Dương Văn Minh, ông Vũ Văn Mẫu và ông Bùi Tùng đã rời khỏi
phòng để sang đài phát thanh….
Tổng thống Dương Văn Minh và chính ủy xe tăng Bùi
Tùng ngồi trên hai chiếc ghế và tôi ngồi giữa họ tại một chiếc bàn nhỏ. Ông
Tùng thảo văn kiện đầu hàng trên một mảnh giấy màu xanh. Ông viết khá vất vả.
Cuối cùng mọi người đã sẵn sàng. Họ tranh luận qua lại và cuối cùng đi đến thỏa
thuận. Ông Minh phải nói: “Tôi, đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống của chính
quyền Sài Gòn” (5).
Cuộc chiến chỉ thật sự kết
thúc khi Báo Chính phủ ra ngày 30/4/2020 có bài: “45 năm trước, có một chương
trình phát thanh lịch sử”.
Theo đó: “Một trong những
nhân chứng chứng kiến, tham gia sự kiện lịch sử đó là kiến trúc sư, cựu Chủ tịch
Tổng hội sinh viên Sài Gòn Nguyễn Hữu Thái – trong vai trò người dẫn chương
trình.
Ông Thái cho biết sáng 30/4/1975, ông cùng Phó Chính
ủy Lữ đoàn 203 Bùi Văn Tùng, Trung đoàn phó Trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ đưa giới
lãnh đạo chính quyền Sài Gòn gồm Tổng thống Dương Văn Minh, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu
ra đài phát thanh.
Ông Thái mượn nhà báo Đức Borries Gallasch chiếc máy
cassette để thu lời đầu hàng vô điều kiện của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa
Dương Văn Minh và lời chấp nhận sự đầu hàng ấy của chính quyền cách mạng do Phó
Chính ủy Bùi Văn Tùng viết”
(6).
Không biết trước những chứng
cứ rõ như ban ngày như vậy thì Lý thông Phạm Xuân Thệ chắc phải cứng họng? Và
nhiều người đặt câu hỏi rằng, phải chăng nhờ vơ thành tích của kẻ khác vào mình
mà Phạm Xuân Thệ đã leo lên đến chức Trung tướng, Tư lệnh Quân khu I và được
phong Anh hùng? Nhiều ý kiến cho rằng ông Phạm Xuân Thệ phải công khai xin lỗi
nhân dân và xin lỗi ông Bùi Văn Tùng vì hành động gian dối này.
-------------------
Chú thích:
No comments:
Post a Comment