Chế độ của Trung Quốc bất an hơn vẻ bề ngoài
Huỳnh
Hoa dịch
Viet-Studies
11-12-2017
Ông Tập Cận Bình (Xi Jinping) sợ điều
gì? Trong mấy năm trước khi diễn ra đại hội lần thứ 19 của đảng Cộng sản Trung
Quốc tháng 10 vừa qua, chính phủ của ông Tập đã siết chặt sự kiểm soát các luật
sư, học giả, người hoạt động xã hội dân sự và trí thức công. Chính phủ Trung Quốc
cũng gia tăng quản lý báo chí truyền thông trong lúc nâng cao mức độ tuyên truyền
về sự xuất sắc của sự lãnh đạo của ông Tập và đòi hỏi các đảng viên và cán bộ
nhà nước phải trung thành nhiều hơn nữa. Chiến dịch chống tham nhũng đã tiếp tục
nhổ bật gốc nhiều quan chức cao cấp, những người tỏ ra không đủ trung thành cá
nhân với ông Tập.
Trường hợp gần đây gây ngạc nhiên nhất là vụ ngã ngựa
hồi tháng 9 của ông Tôn Chính Tài (Sun Zhengcai), một ủy viên bộ
chính trị và bí thư thành ủy đảng Cộng sản Trung Quốc của đại đô thị Trùng
Khánh vùng tây nam Trung Quốc. Giống như tất cả các quan chức cao cấp bị hạ bệ
khác, Tôn bị cáo buộc tội tham nhũng, dâm loạn về tính dục và nhiều tội lỗi
khác – những cáo buộc mà hầu như đồng chí đồng nghiệp nào của ông cũng đều phạm
phải – nhưng tội lỗi thật của ông ta có lẽ là đã không nỗ lực đầy đủ để khuếch
trương sự ủng hộ ông Tập ở thành phố Trùng Khánh, nơi cựu đối thủ của ông Tập –
cựu bí thư Bạc Hy Lai (Bo Xilai) – được cho là vẫn còn được ủng
hộ nhiều hơn so với ông Tập dù 5 năm đã trôi qua kể từ khi ông Bạc bị tước mất
quyền lực một cách ngoạn mục. Ông Tôn đã bị thay thế bởi ông Trần Mẫn Nhi (Chen
Min’er), mà nhiệm vụ hàng đầu là xóa bỏ di sản của ông Bạc khỏi đất Trùng
Khánh.
Tại đại hội đảng mới đây, ông Tập bố trí vào ủy ban
trung ương và hai cơ quan lãnh đạo cấp cao hơn – bộ chính trị và ủy ban thường
vụ bộ chính trị - những người trung thành với ông. Mười lăm trong số 25 ủy viên
bộ chính trị có lịch sử giao du với ông Tập từ những ngày ông bắt đầu sự nghiệp
chính trị ở các tỉnh Phúc Kiến và Chiết Giang (thậm chí có một trường hợp đã
quen với ông trong những ngày ông còn là thanh niên bị đưa xuống nông thôn tỉnh
Thiểm Tây trong thời Cách mạng Văn hóa). Mười ủy viên còn lại gồm các nhà kỹ trị,
một phụ nữ làm kiểu, và hai sĩ quan quân đội theo tiêu chuẩn là những người
mang ơn ông Tập đã phong hàm cho họ - không có ai đại diện cho một thách thức
chính trị có ý nghĩa. Và không ai trong số bảy ủy viên ủy ban thường vụ có cấp
bậc hoặc tuổi tác phù hợp để kế vị ông Tập, cho thấy ông có ý định phục vụ nhiều
hơn hai nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ 5 năm, thường thấy của vị trí tổng bí thư. Việc
đưa vào cương lĩnh của đảng một hệ tư tưởng có vai trò dẫn dắt mới, gọi là Tư
tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc điểm Trung Quốc trong kỷ nguyên
mới, càng cho thấy rằng ngay cả khi ông Tập cuối cùng sẽ bước xuống thì ông vẫn
tiếp tục thống trị.
Bài diễn văn của ông Tập trước đại hội – một diễn
văn kéo dài ba tiếng rưỡi đồng hồ chỉ nhắc lại hết câu khẩu hiệu này đến câu khẩu
hiệu khác mà không giải thích được chúng có ý nghĩa gì – huênh hoang rằng cán bộ
đảng và quan chức chính phủ sẽ được thăng tiến dựa trên thành tích. Nhưng nó định
nghĩa thành tích như là “tuân theo sự lãnh đạo của hạt nhân [tức là ông Tập],
đi theo sự lãnh đạo của trung ương đảng [ông Tập]” và “ủng hộ quyền uy của ủy
ban trung ương [ông Tập]”. Ông Tập đã định nghĩa lại chế độ trọng dụng nhân
tài (meritocracy) thành chế độ đi theo (followocracy).
Trong các cuộc thảo luận tổ suốt thời gian đại hội, các đại biểu đảng tranh
nhau vươn tới các đỉnh cao mới về nhiệt tình tôn vinh sự lãnh đạo của ông Tập.
Tại sao lại có sự tập trung quyền lực mạnh mẽ và nhấn
mạnh vào sự tuân phục như vậy? Ông Tập tuyên bố rằng, Trung Quốc đang sắp hoàn
thành giấc mộng vĩ đại là trẻ hóa dân tộc. Nhưng nhiều động thái mà ông đã thực
hiện như là dấu hiệu về sức mạnh của ông lại là những chứng cớ bộc lộ nỗi âu lo
của ông Tập. Như chính ông Tập đã thổ lộ trong bài diễn văn trước đại hội đảng:
“Triển vọng rất tươi sáng nhưng thách thức rất nghiêm trọng”.
NHỮNG
THẬP NIÊN NGUY HIỂM NHẤT
Thách thức đầu tiên là sự phản kháng đối với sự vươn
lên của Trung Quốc mà Bắc Kinh dự đoán từ phía Washington. Các nhà chiến lược
Trung Quốc gần như đều bám vào lối suy nghĩ thực tế gắn liền với tư tưởng của
John Mearsheimer và Graham Allison, vốn cho rằng một thế lực thống trị được kỳ
vọng sẽ chống lại sự trỗi dậy của một đối thủ cạnh tranh cùng trang lứa. Mười
năm về trước, khi ông Tập vẫn còn là người chuẩn bị kế vị mà chưa phải là tổng
bí thư đảng, ông đã nói rõ cái lý thuyết về một “kiểu quan hệ mới giữa các cường
quốc quan trọng”, với hy vọng thuyết phục các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ
tạo điều kiện thuận lợi cho cái mà Trung Quốc miêu tả là “lợi ích cốt lõi” của
nước này. Nhưng thay vì vậy, dưới thời tổng thống Barack Obama và ngoại trưởng
Hillary Clinton, Washington lại theo đuổi chính sách “xoay trục sang châu Á”,
xoay quanh các chính sách như đàm phán một hiệp định thương mại Đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP), phục hồi các liên minh quân sự trong khu vực và vun đắp
mối hợp tác quốc phòng với các đối tác châu Á chưa phải là đồng minh chính thức
của Hoa Kỳ. Đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, các chính sách như vậy đại diện
cho một nỗ lực làm suy yếu sức mạnh của Trung Quốc và duy trì mãi mãi vị thế thống
trị của Hoa Kỳ.
Sự xuất hiện của ông Donald Trump đã mang lại cho
Trung Quốc một nỗi nhẹ nhõm khỏi áp lực của Hoa Kỳ. Trump đã rút ra khỏi TPP,
làm lung lay niềm tin của các đồng minh vào cam kết bảo vệ an ninh của Hoa Kỳ
và đóng một vai trò hỗ trợ trong việc xây dựng sự sùng bái ông Tập. Nhưng là những
người Marxist hiện đại, các nhà lãnh đạo Trung Quốc nghĩ rằng, những lợi ích
thuộc về cấu trúc thì quan trọng hơn nhiều so với các cá nhân. Chẳng sớm thì muộn,
bằng cách này hay cách khác, có hoặc không có ông Trump, Hoa Kỳ vẫn sẽ cố gắng
chặn đứng đà vươn lên của Trung Quốc. Trong mắt nhìn của họ, những thập niên cuối
cùng sẽ tới trong động lực vươn tới một quốc gia vĩ đại (mà ông Tập xác định thời
điểm vào năm 2049), là đặc biệt nguy hiểm. Ngay cả bây giờ, cái mà Trung Quốc
nhìn thấy như là sự xử trí sai lầm của Hoa Kỳ đối với tình hình Bắc Hàn – cường
điệu cuộc khủng hoảng và đe dọa chiến tranh thay cho giảm căng thẳng và đàm
phán – được các nhà phân tích Trung Quốc coi như một âm mưu xảo quyệt của Mỹ. Lối
suy nghĩ này cho rằng, căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên có nghĩa là buộc
Trung Quốc phải từ bỏ vùng đệm Bắc Hàn cách ly lực lượng Hoa Kỳ và kích thích
các đồng minh của Hoa Kỳ ở châu Á nâng cấp khí tài quân sự và thậm chí còn có
thể thủ đắc vũ khí hạt nhân.
Với những mối lo sợ như vậy trong tâm trí, ông Tập
nhắc đi nhắc lại trong bài diễn văn của ông tại đại hội đảng cái nhu cầu “thực
hiện chính sách ngoại giao nước lớn với đặc điểm Trung Quốc, [một chính sách
ngoại giao] nhắm tới việc nuôi dưỡng một kiểu mới của quan hệ quốc tế và xây dựng
một cộng đồng cùng chia sẻ tương lai của nhân loại”. Nói cách khác, hãy tiếp tục
cố gắng để Washington chấp nhận một cách hòa bình sự trỗi dậy của Trung Quốc
càng lâu càng tốt.
THÊM
LUẬT LỆ, THÊM KẺ CẮP
Một thách thức khác cho chế độ của ông Tập là thách
thức nội bộ. Như ông đã nói trong bài diễn văn trước đại hội, “Những gì chúng
ta đang đối mặt bây giờ là mâu thuẫn giữa một bên là sự phát triển không cân bằng,
không cân đối và một bên là nhu cầu ngày càng tăng của người dân về một đời sống
tốt đẹp hơn”. Ông đã đề cập tới cuộc cách mạng của các kỳ vọng dâng trào – kỳ vọng
có không khí sạch hơn, nhà cửa vừa túi tiền hơn, sản phẩm an toàn hơn và dịch vụ
công tốt hơn – từ phía tầng lớp trung lưu đang gia tăng nhanh chóng, từ các
giai cấp nông dân và lao động khao khát vươn lên của Trung Quốc. Cuộc cách mạng
này xảy đến giữa lúc tăng trưởng kinh tế đang chậm lại và một nhu cầu khẩn cấp
phải thực hiện những cuộc cải cách khó khăn để làm giảm nợ nần của ngân hàng và
chính quyền địa phương, phục hồi các doanh nghiệp nhà nước và tái tạo nền kinh
tế năng lượng của Trung Quốc.
Nhiều xã hội đã từng trải qua những áp lực và căng
thẳng nội bộ mà chế độ cai trị không hề bị sụp đổ. (Xã hội Mỹ ngày nay là một
ví dụ tốt, trong đó gần như mọi người đều tức giận về tình trạng của nền chính
trị và kinh tế). Nhưng ở Trung Quốc, ngay cả một biểu hiện nhỏ của sự bất mãn
cũng bị coi là mối đe dọa sống còn cho đảng cầm quyền. Chuyện này được minh họa
rõ nét vài tuần trước đây khi chính phủ nhanh chóng dập tắt sự biểu lộ nỗi giận
dữ của công chúng trước vụ bạo hành trẻ em tại một nhà trẻ ở Bắc Kinh. Cần thiết
phải triệt tiêu những biểu hiện giận dữ không dự liệu trước của dân chúng trước
khi chúng lan tràn, bởi vì như ông Tập nói trước đại hội, “Yếu tố xác định chủ nghĩa
xã hội mang đặc điểm Trung Quốc là sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Trung Quốc”.
Sách Đạo đức kinh của đạo Lão
khuyên bảo, “Càng có nhiều luật lệ, nhiều mệnh lệnh thì càng có nhiều kẻ cắp và
kẻ cướp”. Bằng cách nhấn mạnh vào sự độc chiếm quyền lực, đảng Cộng sản Trung
Quốc đã biến mọi tiếng nói độc lập thành một mối đe dọa sinh tử. Ấy thế nhưng mục
đích được tự xác định cho sự tồn tại của đảng là tạo ra một xã hội hiện đại, và
trong cái xã hội hiện đại ấy, các tiếng nói độc lập sẽ liên tục vang lên. Sự cai
trị đang diễn ra của ông Tập – cho dù nó được kéo dài thêm 5 năm, 10 năm hoặc
thậm chí lâu hơn nữa – sẽ thử nghiệm những gì mà mọi người bắt đầu gọi là “mô
hình Trung Quốc”, một mô hình hoàn toàn phụ thuộc vào niềm tin rằng công cuộc
hiện đại hóa tiên tiến có thể tương thích với một chính quyền chuyên chế và đàn
áp.
*
Andrew J.
Nathan: giáo sư khoa học chính trị, trường đại học Columbia, đồng tác giả với
Andrew Scobell viết cuốn sách “China’s Search for Security” (Trung Quốc tìm kiếm
an ninh).
Nguồn :
No comments:
Post a Comment