Lê Phan
July 15, 2017
Thời còn đi học, tôi có lần được đến thăm ngôi nhà
riêng của cố Tổng Thống Harry Truman ở Independence, Missouri. Hồi đó ông còn sống
tuy đã lớn tuổi. Ông bà vẫn sống rất bình dị, căn nhà ông bà ở người ra kẻ vào
tự nhiên. Những năm của thập niên 1960, đất Mỹ còn là một miền đất của thời
thái bình, nhà cựu tổng thống không có canh gác cẩn mật. Cựu tổng thống có một
vài người phụ ông trả lời thư tín, nhưng vào nhà không ai nghĩ đây là căn nhà của
một vị cựu tổng thống Hoa Kỳ, mà lúc đó đã trở thành cường quốc quan trọng nhất
của thế giới.
Tổng Thống Harry S. Truman, vị tổng thống thứ 33 của
Hoa Kỳ là một con người bị đột ngột đưa vào chức vị quan trọng nhất thế giới và
ông đã chứng tỏ là một trong những vị tổng thống vĩ đại nhất của Hoa Kỳ.
Sở dĩ tôi nhớ đến Tổng Thống Truman vì câu chuyện giữa
báo chí và Tổng Thống Donald J. Trump. Như nhà báo Jeffrey Frank của tạp chí
New Yorker nhắc nhở, ông Truman là người đã có lần gọi báo chí là “báo chí phản
bội và phá hoại,” nhưng ông cũng là một người kính nể và tôn trọng quyền tự do
báo chí. Và tôi cũng nghĩ đến ông Truman vì Hội Nghị G-20 vừa qua.
Ngày 17 Tháng Tư, 1945, năm ngày sau khi Tổng Thống
Franklin D. Roosevelt đột quỵ và qua đời vì tai biến mạch máu não ở Warm
Springs, Georgia, tân tổng thống Harry S. Truman tổ chức cuộc họp báo đầu tiên.
Từ lần đó cho đến cuối nhiệm kỳ tổng thống của ông, ông tổ chức 324 cuộc họp
báo, trong đó ông cố gắng, thường rất vui vẻ, trả lời những câu hỏi của nhà
báo. Lần đầu tiên đó, ông nói trước “Nếu quý vị hỏi tôi bất cứ điều gì, tôi sẽ
cố trả lời, và nếu tôi không biết, tôi sẽ nói tôi không biết.”
Ba tháng sau, ông Truman lên đường đi Postdam ở Đức
để dự một hội nghị thượng đỉnh, kéo dài đến hơn hai tuần lễ, với các thành viên
của “đại liên minh” vốn đã đánh bại Đức Quốc Xã: Lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin,
Thủ Tướng Anh Winston Churchill (vốn sắp bị thất cử và ngay tại hội nghị đã được
thay thế bởi tân Thủ Tướng Clement Attlee.)
Khi ông còn là phó tổng thống, ông Roosevelt không
kính nể ông, coi ông là một nhân vật của “bộ máy” chính quyền địa phương, và
không chia sẻ gì với ông về những việc đại sự cả. Thành ra trước khi đi dự hội
nghị Postdam, ông Truman học bài, học ngày đêm cho cuộc thi lớn nhất đời ông.
Ông viết trong cuốn nhật ký mà ông có lúc giữ trong suốt thời làm tổng thống
“Đã trải qua một số ngày hết sức vội vàng. Mỏi mắt quá. Đọc quá nhiều những
‘fine print.’ Hầu như mỗi memo có một cái nguy cơ trong đó và cần phải đọc ít
nhất cả ngàn cái cũng như từng đó bản phúc trình. Hầu hết vào ban đêm.” Hội nghị
làm ai cũng thấm mệt, nhưng ông Truman trở về Washington với sự tán thưởng của
các vị quốc trưởng khác. Thủ Tướng Churchill được nghe nói: “Ông ta có vẻ là một
người với khả năng và sự bặt thiệp đặc biệt, với một cái nhìn đúng như là liên
hệ Anh Mỹ đã phát triển.”
Tuần trước, ngay sau kỷ niệm 72 năm Hội Nghị
Potsdam, ông Donald J.
Trump, tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ, tham dự Hội Nghị Thượng Đỉnh G-20 ở
Hamburg cũng tại Đức. Nhưng sau sáu tháng tại chức, ông Trump hành động và
trông như một kẻ ngượng ngùng, không có bao nhiêu hiểu biết, đứng ngoài, một
người khách đến ăn cơm mà không ai muốn nói chuyện với.
Tổng Thống Trump thù ghét báo chí. Kể từ khi nhậm chức,
ông chỉ có 11 cuộc họp báo -10 cuộc là chung với các lãnh tụ khác. Trong lần họp
báo duy nhất một mình hôm 16 Tháng Hai, ông nói lan man, ông ra ngoài đề, ông tự
khoe mình, như ông vẫn thường nói, về điều mà ông coi là sự vĩ đại chứng minh
được và một chuỗi thành công của ông. Ông nói: “Chúng ta đã có những tiến bộ
khó tin. Tôi không nghĩ có một tổng thống đắc cử mà, trong một thời gian ngắn,
đã làm điều mà chúng tôi đã làm.” Ông thường xuyên miệt thị báo chí là “tin dỏm”
hay tờ New York Times đang mất khách, hay đài CNN đang thất bại…
Trong chỗ riêng tư, ông Truman thỉnh thoảng cũng nói
đến “báo chí phá hoại,” hay “báo chí phản bội và phá hoại” hay “giết uy tín người
khác.” Ông cũng có một số nhà báo ông không ưa như ông Westbrook Pegler, vốn đã
từng gọi ông là “anh bán quần áo biết gì.” Hay tờ Chicago Tribube, vốn đã gọi
ông là “một tên ngu đần” hay “ăn cắp phiếu, bảo vệ tham nhũng, tha bổng cho
gangster.” Nhưng ông không bao giờ quên vai trò của báo chí.
Trong suốt bảy năm tại chức, ông Truman, quả có lúc
có một tiệm bán quần áo, đã chứng tỏ một khả năng hiếm có. Chỉ vài tuần sau khi
ông nhậm chức, vào ngày sinh nhật 61 tuổi của ông, ông nhận sự đầu hàng của Đức,
nhưng trong khi đó cuộc chiến với Nhật Bản tiếp tục. Ông đã chấp thuận việc sử
dụng bom nguyên tử để chấm dứt cuộc chiến mà nếu tiếp tục sẽ còn đổ biết bao
xương máu cả người Mỹ lẫn người Nhật vì Nhật sẽ không chịu đầu hàng. Đã có những
chỉ trích và tranh luận về việc sử dụng bom nguyên tử cho đến ngày nay nhưng nó
đã là một trong những lý do chính khiến Nhật đầu hàng.
Ông cũng là người đã hướng nền ngoại giao Hoa Kỳ
sang một chính sách quốc tế, từ bỏ chính sách cô lập. Ông đã thuyết phục được
Quốc Hội thông qua $13 tỷ cho Kế hoạch Marshall để tái thiết Âu Châu. Ông từ chối
kế hoạch trừng phạt Đức và giúp hình thành Tây Đức. Ông đã giúp xây dựng nên
Liên Hiệp Quốc. Năm 1947, ông công bố Chủ thuyết Truman, bao vây chế độ Cộng Sản.
Chính ông đã trông nom tổ chức cầu không vận Berlin năm 1948 và là cha đẻ của
Liên Minh Bắc Đại Tây Dương NATO năm 1949, nhưng không làm sao cứu được cho
Trung Hoa Dân Quốc không rơi vào tay Cộng Sản. Khi Cộng Sản Bắc Hàn xâm lăng
Nam Hàn, ông gửi binh sĩ Hoa Kỳ và sau đó nhờ Liên Xô tẩy chay, ông giành được
thỏa thuận của Liên Hiệp Quốc cho Chiến Tranh Cao Ly. Cuộc chiến chỉ kết thúc với
một lệnh ngưng bắn sau khi ông mãn nhiệm.
Trong những vấn đề quốc nội, nhiều đạo luật của ông
đã bị thất bại vì Quốc Hội bảo thủ, nhưng ông đã thành công trong việc hướng dẫn
Hoa Kỳ qua những thách thức kinh tế hậu chiến. Là một người ở một tiểu bang ráp
ranh với miền Nam, ông đã coi dân quyền là một ưu tiên đạo đức, và năm 1948 đưa
ra một dự luật cải tổ dân quyền đầu tiên. Ông cũng đã ra những sắc lệnh cấm kỳ
thị chủng tộc trong quân đội và trong các cơ quan liên bang.
Điều còn đáng chú ý hơn nữa là trong tiểu sử, ông tự
hào nhận mình là “nhà nông, bán quần áo.”
Ở cuộc họp báo cuối cùng của ông vào ngày 15 Tháng
Giêng, 1953, ông nói: “Loại họp báo như
thế này, nơi mà nhà báo có thể hỏi bất cứ câu hỏi nào mà họ nghĩ tới – trực tiếp
cho Tổng thống Hoa Kỳ – chứng tỏ nền dân chủ của chúng ta hùng mạnh và sung sức
đến mức nào. Không có một quốc gia nào trên thế giới mà quốc trưởng phải chịu
những câu hỏi không giới hạn như vậy. Tôi cũng biết từ kinh nghiệm bản thân,
không phải dễ mà đứng ở đây và cố trả lời, không chuẩn bị, đủ loại câu hỏi
không được báo trước. Có lẽ các vị tổng thống về sau sẽ có cách để cải thiện và
bảo đảm cho thủ tục này. Tôi hy vọng họ sẽ không bao giờ cắt đứt mối dây liên hệ
trực tiếp giữa họ và nhân dân.”
No comments:
Post a Comment