Sunday, November 23, 2008

MỘT ĐỜI CHO THẾ HỆ MAI SAU (Phần 2)

Một đời cho mai sau (II)
Cung Thị Lan
23-11-2008
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=5729

Cung Giũ Nguyên: Một đời cho thế hệ mai sau

(Tiếp theo và hết)

Năm 1979, tình cờ đọc một tập thơ Cách Mạng, tôi đã sửng sốt với bài thơ Nhớ Máu của Trần Mai Ninh:

Nhớ Máu
Ơ cái gió Tuy Hoà...
Cái gió chuyên cần
Và phóng túng.
Gió đi ngang, đi dọc,
Gió trẻ lại - lưng chừng
Gió nghỉ,
Gió cười,
Gió reo lên lồng lộng.

Tôi đã thấy lòng tôi dậy
Rồi đây
Còn mấy bước tới Nha Trang
- A, gần lắm!
Ta gần máu,
Ta gần người,
Ta gần quyết liệt.

Ơi hỡi Nha Trang!
Cái đô thành vĩ đại
Biết bao người niệm đọc tên mi.

Và Khánh Hoà vĩ đại!
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người,
Cả hồn ta sát tới
Nhìn mi!
Ta có nhớ
Những con người
Đã bước vào bất tử!
Ơ, những người!
Đen như mực, đặc thành keo
Tròn một củ
Hay những người gầy sát lại
Mặt rẹt một đường gươm
Lạnh gáy,
Lòng bàn tay
Khắc ấn chuôi dao găm.
Chân bọc sắt,
Mắt khoét thủng đêm dày

Túi chứa cả Nha Trang... họ bước
Vương Gia Ngại... Cung Giữ Nguyên
Chút chít Hoàng Bá San... còn nữa!

Cả một đàn chó ghẻ
Sủa lau nhau
Và lần lượt theo nhau
Chết không ngáp!

Dao găm để gáy,
Súng màng tang

Ồng ộc xối đầy đường máu chó.
Chúng nó rú.
Cả trại giặc kinh hoàng.
Quy-lát khua lắc cắc
Giày đinh xôn xao
Còi và kèn...
Cả trại giặc bạt hồn, bạt vía...
Chạy lung tung
-Sớm mai xét và bắt
Thiết giáp cam nhông
Rầm rập nối đuôi nhau
Và đêm khuya: lại chết
Chồn Pháp, chó Việt gian
Ằng ặc máu

Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người
Cả hồn ta sát tới
Biết bao người
Sống lẩn lút nhưng ngang tàng
Bên lưng giặc!
Vẫn tổ chức, vẫn tuyên truyền
Hoặc giao thông hay liên lạc
Rải giấy
Treo cờ
Hay gồng vai tiếp tế
Từ bình minh cho tới trăng tàn
Đúc bê tông bên mặt trận
Và thì thào cùng du kích đi lên...
Cả ngàn chiến sĩ
Cả ngàn con bạc, con vàng
Của Tổ quốc!
Sống... trong đáy âm thầm
Mà nắm chắc tối cao vinh dự
Quắc mắt nhìn vào thăm thẳm tương lai
Vững tin tưởng nơi oai hùng
Và chiến thắng
Câu Việt Nam: dân tộc!

Cờ đã nâng cao
Màu đỏ máu
Với sao vàng tung rực rỡ!
Mặt hoàn cầu đã họp những tia xanh
Trán nhíu lại
Chú ý nhìn châu Á phía Đông Nam

Ta quyết thắng!
Việt Nam rồi đứng dậy
Sáng vô chừng
Rất tươi đẹp với Nha Trang và Nam Bộ
Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt
Máu chan hòa trên góc cạnh kim cương
Các anh hùng tay hạ súng trường
Rồi khẽ vuốt mồ hôi và máu
Họ cười vang rung lớp lớp tinh cầu!
Trần Mai Ninh

Trần Mai Ninh (1917-1947). Nguồn: cinet.gov.vn
http://www.dcvonline.net/php/images/112008/tmninh.jpg

Tôi không biết Vương Gia Ngại và Hoàng Bá San là ai, và họ đã làm gì để phải bị chửi rủa thậm tệ như vậy, nhưng cảm thấy khủng khiếp khi thấy tên Cung Giũ Nguyên (Viết sai chính tả thành Giữ) bị chửi chung với những từ ngữ hết sức khó nghe như “chút chít”, “đàn chó ghẻ”, “sủa lau nhau”, “chúng nó rú” và “chó Việt gian”.

Vì tôi biết những người lớn như bác tôi thời ấy thường không muốn con cháu bận tâm về những “chuyện của người lớn” nên tôi đã nín lặng và âm thầm tìm hiểu. Một thời gian sau, nhân dịp nghe ông tâm sự chuyện xưa tích cũ, tôi đã hỏi là ông có biết có người ghét ông không. (Trước lúc đó, tôi nghĩ là không ai có thể ghét ông hay nói cách khác là mọi người đều mến mộ và thương mến ông). Ông trả lời là ở đời làm sao tránh khỏi chuyện người ghét mình. Khi tôi hỏi có phải vì ông viết sách bằng tiếng Pháp trong thời Pháp thuộc nên những người ở phía bên kia cho ông là Việt gian không, thì ông không trả lời mà kể cho tôi nghe chuyện ông bị mật thám Tây báo thế nào không biết mà lính Tây cho người vây lùng bắt ông và cả gia đình nội tôi đến nỗi tất cả phải đùm túm kéo nhau bỏ nhà trốn đi. Kết thúc cuộc nói chuyện, tôi chẳng tìm được căn cứ nào cho hai chữ Việt gian mà nhà thơ Trần Mai Ninh gán ghép cho ông. Vẫn như những lần nói chuyện khác, ông thường cho chúng tôi những lời khuyên sâu sắc và ý nghĩa. Hôm đó, ông cho tôi bài học luân lý là: Ðừng đánh giá con người qua bề ngoài. Ông kể là trên đường từ Nha Trang lên Diên Khánh trốn, khi chị họ của tôi và cả ông bị lính Tây bắn bị thương, không hề được những người có khuôn mặt hiền như bụt giúp đỡ. Họ thoái thác từ chối vì sợ bị vạ lây. Ðến khi cả gia đình tưởng đâu bị một người đàn ông có khuôn mặt như tướng cướp trấn lột thì lại được ông này tận tình giúp đỡ và cho nơi ẩn trú. Ông là thế, khi có điều kiện kể chuyện, thường hướng con cháu đến những vấn đề giáo dục đạo đức hơn là những điều mà ông cho là vô bổ. Với lối nói chuyện của ông như vậy, sự tìm hiểu của tôi không được mở rộng thêm chút nào.

Năm 2004, sau khi cuốn sách Nha Trang Dấu Chân Kỷ Niệm của tôi ra đời, tôi đã ngỡ ngàng khi H.K, một học sinh lớp 12 niên khóa 1974-1975 của trường Lê Quý Ðôn Nha Trang, hỏi tôi ‘Có phải thầy Cung Giũ Nguyên là Việt Cộng nằm vùng không?’ Cô ta còn cho biết ba cô, người giữ chức vụ trong Sở Cảnh Sát Nha Trang đã theo dõi một số Việt Cộng nằm vùng mà thầy Cung Giũ Nguyên một trong những người ở danh sách. Vì câu hỏi vặn: “Nếu thầy Cung Giũ Nguyên không thiên cộng thì tại sao ông không bị bắt học tập dài hạn như những nhà văn miền Nam khác trước năm 1975?” đã làm tôi sốc nên tôi cảm thấy không cần giấu cô ta làm gì. Tôi tiết lộ cho cô hay là thời hạn học tập của thầy Cung Giũ Nguyên của cô tuy ngắn hơn các nhà giáo và nhà văn miền Nam khác nhưng tình cảnh của ông không khác gì họ. Tôi còn cho cô ta biết thêm rằng thầy hiệu trưởng Cung Giũ Nguyên của cô không thể nào là người thiên cộng khi mà tôi đã nghe quá nhiều câu nói dí dỏm của ông về Xã Hội Chủ Nghĩa và chủ nghĩa Cộng Sản. Dù sao, đây là tin xấu mà tôi không thể giữ trong bụng được lâu. Khi về Việt Nam thăm gia đình, tôi hỏi bác có biết là trước năm 1975 ông bị cảnh sát Quốc Gia theo dõi không. Ông chỉ cười mà không hề hỏi lại hay nói gì.

Tôi không biết Cung Giũ Nguyên là ai trong mắt của những nhà chính trị. Nhưng tôi biết là ông đã biết sự ngộ nhận của nhiều người về ông.
“Quả là đúng,câu của thi sĩ Rainer Maria Rike (trong sách viết về nhà điêu khắc Rodin) cho danh vọng chỉ là tinh hoa của những ngộ nhận dồn dập chung quanh một tên mới ‘La gloire n'est en definitive que la quintessence des malentendus qui s'assemblent autour d'un nom nouveau.’ Tôi sẽ nuôi dưỡng thứ hiểu lầm ấy khi trả lời những câu hỏi của anh, nhưng tôi có thể tự bào chữa khi thưa là những điều anh muốn biết, tôi đã ghi trên giấy và đã được công bố, và vài người đã biết đến nay”
Cũng trong bức thư gửi cho ông Nguyễn Hữu Thứ ở Canada, ngày 23 tháng 12 năm 1997, sau khi giải thích chuyện bị bãi chức năm 1930 và đề cập đến sự sa thải không cần cho biết lý do của nghị định thải hồi số 1027 ngày 28/03/1930 của Khâm sứ Trung Kỳ, ông đã giải bày như sau:
“Tôi từ bỏ nghề dạy học, mà thâm tâm tôi rất thích.Tôi lại tiếc hơn nữa, vì từ dạo đó, tôi đã nhận ra cái yếu kém của phần lớn bạn bè cũ của tôi, của nhiều đồng bào của tôi là do ba yếu tố dốt, đói và sợ. Mà sợ, hay đói suy cho cùng, cũng chỉ vì cái DỐT. Cá nhân thường hay chịu khốn khổ vì cái dốt của chính mình và phần lớn vì cái dốt của người khác. Nhiều dân tộc đã sống khốn cùng suốt kiếp chỉ vì rủi gặp bọn cai trị chỉ là phường dốt nát. Phải chi tôi có thể góp phần nhỏ nào trong công việc chống lại cái dốt, cái dốt của tôi trước đã, và cái dốt của thiên hạ sau.”

Rồi cũng trong bức thư này, ông bày tỏ thêm:
“Cuộc dạy học đối với tôi như thể một trò chơi, hay một thử thách. Tôi tìm được nhiều niềm vui trong đó. Phần thưởng tôi nhận được, là tình cảm những học sinh của nhiều thế hệ, từ nhiều trường, dành cho tôi xưa nay. Tôi không thiếu sự thăm viếng của những người gián tiếp chứng tỏ là tôi đã dạy tốt, và tôi thật sự đã giúp ích. Không thiếu gì những học sinh cũ ở nước ngoài về, cũng ghé thăm, và ai cũng nhớ ít ra một cử chỉ hay một lời nói, (thường là người nầy khác với người kia) của tôi. Không thiếu gì cựu sinh viên hay học sinh, ngày nay là đồng nghiệp của tôi, và có người đã tìm ra được lý do tại sao mặc dù tôi không thiếu cơ hội, tôi đã không làm chính trị hay tham chính, và chỉ muốn nghề thầy giáo.”
Ông đã tự hào về nghề dạy của mình, tự tin với những gì mình đã dạy và hài lòng với những kết quả mà mình góp phần trong công việc giáo dục học sinh, bất kể là họ đang ở trong hay ngoài nước:
“Tôi không khỏi cảm động khi tình cảm học trò cũ lại được công bố trên giấy trắng mực đen, chẳng hạn, trước năm 1975, một lời tưởng nhớ trong luận án tiến sĩ y khoa, bảo vệ tại Sài Gòn, của một cựu học sinh trung học. Sau gần ba mươi năm, ông bác sĩ ấy từ tiểu bang Illinois, còn giữ được tình cảm đối với thầy cũ để viết những giòng như thế này.
‘Ðọc ngay trang đầu thư thầy lòng con thấy chùng hẳn xuống. Con đứng trên nước Mỹ cô đơn. Thầy chọn quê hương làm chốn lưu đày! Ðọc thư thầy con nghe từng hơi thở của Thầy, mệt nhọc nhưng quyết liệt. Thầy đang chuyển cho con sức sống của Thầy, những suy nghĩ của Thầy, những chiêm nghiệm của Thầy hơn nửa thế kỷ về lịch sử và con người. Con kiêu hãnh được thầy ký thác và giáo dục...’
Nhưng, cũng thật đặc biệt và quý hóa lời tưởng nhớ của một bác sĩ giám đốc bệnh viện của Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, trong luận án tiến sĩ, (năm 1991) đã dành một trang viết như thế nầy: ‘Tri ân thầy CUNG GIŨ NGUYÊN, nguyên giáo sư Pháp văn Trường Ðại Học Cộng Ðồng Duyên Hải miền Trung. Mười năm qua Thầy đã tận tình giúp đỡ tôi mở rộng kiến thức, nhờ đó tôi đã tự tin hơn, mạnh dạn hơn để theo đuổi con đường khoa học đầy chông gai và không kém phần gian khổ.Ký tên’”

Khẳng định mình là ai, ông đã viết:
“Một cuộc đời có thể tóm tắt nơi ba mục tiêu hay đề tài: dạy học, viết văn, và sống theo ba chiều hướng của lý tưởng Hướng Ðạo: Xây dựng nhân vị, giúp ích cộng đồng, và hướng thượng. Vào lúc xế chiều, gần tới đỉnh cửu tuần, ngoảnh lại nhìn con đường đã đi, tôi mừng đã được may mắn, và hết sức thành thật mà nói, chẳng chút chua chát hay oán giận gì, tôi còn có được, ngay cho đến phút viết mấy chữ nầy. Sự giúp đỡ gián tiếp và bất ngờ của những kẻ nầy kẻ nọ, với lý do chính đáng hay không chính đáng, ghét cay ghét đắng tôi, muốn thủ tiêu thể xác hay muốn xóa bỏ tên tuổi hay hình ảnh, hay bôi bẩn trên đó... với sự giúp đỡ như vậy, tôi mừng đã tìm trong mọi phạm vi hoạt động một cái vui vô biên chọn đúng đường đi, những đã chọn những việc làm, hợp với tính tình và khả năng, theo phương châm của Hướng Ðạo mà tôi đón nhận từ năm 1936:gắng sức, sẵn sàng, giúp ích, và từ năm 1940, với tin tưởng vững chắc nơi Tình Thương (Deus=caritas), là con đường, là chân lý, là sự sống”
(Cung Giũ Nguyên, Thư Mục Cung Giũ Nguyên, 2002, trang 186)

Có thể, những người ghét cay ghét đắng ông, muốn thủ tiêu thể xác và xóa bỏ tên tuổi của ông bởi vì:
“Có điều ngộ nghĩnh đáng ghi nhận là tình cờ hai việc dạy học và viết văn của tôi đã giúp đỡ lẫn nhau (không chỉ về mặt tinh thần hay tri thức, mà ngay trong thực tế tầm thường. Tôi nhờ dạy học mới có thì giờ và tâm trí để ‘trả nợ văn chương’. Nhưng ngược lại, chính trò chơi viết lách của tôi lại giúp tôi tiến thân một cách dễ dàng (và trong sự bực tức của rất nhiều người) trong sự nghiệp dạy học của tôi. Tôi chẳng có bằng Tú Tài và được cử đi chấm thi Tú Tài, Nha Trang, Huế, Sài Gòn. Tôi được miễn xuất trình bằng cử nhân (có đâu mà trình) để được bổ nhiệm làm hiệu trưởng một trường trung học đệ nhị cấp. Không ai hỏi bằng Tiến sĩ của tôi để mời tôi dạy ở Ðại học hay chấm thi (về Pháp Văn) cho thí sinh Tiến sĩ đệ tam cấp. Trên những giấy tờ chính thức, khi liệt kê tên tôi, nơi mục bằng cấp, thay vì đề không, họ có khi viết ‘Học giả’ hay ‘văn sĩ’”
(Cung Giũ Nguyên - Thư Mục Cung Giũ Nguyên 2002, trang 187-188)

Gậy Lên đường bên nón -khăn quàng đoàn Gilwell, khâu da hai thao với bốn mẩu gỗ, chuyên hiệu rừng- trên cổ: Cung Giũ Nguyên, một huynh trưởng dày công với phong trào HĐVN và Thế giớiNguồn: Wikipedia.org
http://www.dcvonline.net/php/images/112008/cgn4.jpg

Hay vì những nhận xét thâm thúy của ông trên giấy trắng mực đen như:
Hô hào hòa bình hòa giải: Sói tranh đấu cho hòa bình. Sau ngàn năm hay lâu hơn nữa chiến tranh liên tục với cừu, giống sói cầu hòa. Ðó là lợi cho cả hai phe. Thế là hòa giải đã xong, hòa bình long trọng ký kết. Hai bên trả lại những con tin, chó sói trao sói con, những người chăn chiên trao những chó của mình, dưới sự chúng kiến của những ủy viên. Nhưng rồi, sau một thời gian những sói con trưởng thành không quên được bản năng khát máu và giết chóc, sẵn sống trong chuồng cừu, giết một số đem về hang động chúng sau khi đã mật báo cho đồng loại biết. Những con chó làm con tin bên phía địch, chẳng biết gì, tin nơi hòa ước, ăn no ngủ kỹ, và bị sói lớn sói nhỏ đến cắn cổ trong khi chúng ngủ, và bị phân thây, trừ một con chạy thoát được. Nhà ngụ ngôn, không biết có muốn nói kháy chuyện của con người hay không, nhưng đã kết luận một cách chán chường: “Ðối với kẻ dữ phải chiến đấu không ngừng. Hòa bình tự nó tốt thật đấy. Tôi đồng ý, nhưng làm sao nói chuyện hòa bình với những kẻ thù ngụy tín?”
(Cung Giũ Nguyên, Câu Chuyện Ngành Ấu - Viết về Sói cho những Sói con không phải con sói)

Cho dù điều gì đã gây nên sự căm ghét, cho dù ông đã cống hiến cho thế hệ trẻ ở Nha Trang như thế nào và được giới trẻ kính phục ra sao, ông đã không được một tờ báo địa phương nào đăng tin chia buồn cho sự ra đi vĩnh viễn của ông. Ngoài Phóng viên Phan Song Ngân đăng tin Nhà Văn hóa Cung giũ Nguyên Vừa Từ Trần tại Nha Trang trên các mạng Thanh Niên, Tuổi Trẻ và Nguyễn Ðình Quân đăng tin Nhà Văn Cung Giũ Nguyên Từ Trần trên trangTiền Phong, không một nhà văn nào trong nước, hay nhà báo nào ở địa phương dám ca ngợi về những cống hiến của ông cho ngành giáo dục, văn học và dịch thuật cho sinh viên, học sinh và các bác sĩ ở thành phố Nha Trang. Có lẽ bài thơ Nhớ Máu của Trần Mai Ninh còn ảnh hưởng quá mạnh mẽ khiến không ai có thể quên tên Cung Giũ Nguyên trong bài thơ ấy. Trong ngày thương binh liệt sĩ gần đây, nhà báo Thanh Thảo đã ca ngợi bài thơ Nhớ Máu hết lời như sau:
“Trần Mai Ninh đấy! Và bắt đầu từ ngọn gió dữ dội ấy, thơ Việt hiện đại có thêm một nhà thơ, một bài thơ bất tử: bài Nhớ máu. Hãy đọc lại bài thơ này với niềm đam mê, với tình yêu, và chúng ta sẽ thấy, cái nhịp thơ Nhớ máu ấy chính là nhịp rock, một loại hard rock mà ngay tới bây giờ cũng chưa dễ thưởng thức được trọn vẹn. Thơ bắt đầu từ ngôn ngữ, nhưng trên cả ngôn ngữ, siêu-ngôn-ngữ chính là nhịp thơ, chứ không phải vần thơ. Nhịp thơ đẩy bài thơ vọt lên phía trước, ấn vào vô thức người đọc, khuấy động tận đáy sâu tâm cảm người đọc. Đã nhiều năm tôi đọc Nhớ máu, ở nhiều hoàn cảnh và tâm trạng khác nhau, và sau cùng, cái “ấn” vào tôi sâu nhất vẫn là nhịp (rhythm), cái nhịp kỳ lạ của bài thơ này:
“- A, gần lắm!
Ta gần máu,
Ta gần người,
Ta gần quyết liệt.
Ơ hỡi, Nha Trang!
Cái đô thành vĩ đại”
(Thanh Thảo- Kỷ niệm ngày Thương binh-liệt sĩ - Việt Báo.vn-Mạng Việt Nam Thông Tin Ra Thế Giới ngày Chủ nhật, 23 Tháng bảy 2006)
Tôi đồng ý với câu “Câu thơ ngày trước có ngờ hôm sau” khi đọc nhận định của Thanh Thảo rằng:

“Trần Mai Ninh đã phải trả giá bằng chính cuộc đời mình cho bài thơ Nhớ máu. Giống như Lorca khi viết bài thơ định mệnh Bi ca cho Ignacio Sanchez Mezias ông đã kêu lên: ‘Tôi không muốn nhìn thấy máu’, thì đó chính là máu của ông, máu của một nhà thơ Tây Ban Nha vĩ đại. Trần Mai Ninh đã ‘nhớ máu’, và đó cũng là máu của chính ông, một nhà thơ Việt Nam quyết tử. Không chỉ ‘quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh’, mà còn quyết tử cho Thơ, cho sự đổi mới toàn diện Thơ: ‘Mắt ta căng lên/Cả mặt/Cả người/Cả hồn ta sát tới.’ Đó là phút giây của xuất thần, của vô thức, của trào dâng. Thơ vọt ra như máu xối - máu của người yêu nước quyết tử, máu của nhà thơ tự do cả thân xác lẫn tâm hồn.”
Trong khi khát vọng của bài thơ là được chứng kiến máu xối xả của kẻ thù và Việt gian “Chết không ngáp!”, “Ồng ộc xối”, “Ðầy đường máu chó” và “ằng ặc máu” thì “chính tác giả sau này đã phải trả giá bằng chính cuộc đời mình” như Thanh Thảo nhận định và khẳng định.

Tôi tôn trọng và khâm phục tinh thần chiến đấu của những người Cách Mạng chống Pháp nhưng tiếc cho Trần Mai Ninh đã không định rõ ai là Việt gian trong cuộc chiến phức tạp của Việt Nam. Hơn bao giờ hết, tôi chắc rằng Trần Mai Ninh chưa từng gặp Cung Giũ Nguyên, chưa từng nghe Cung Giũ Nguyên nói chuyện, chưa từng thấy Cung Giũ Nguyên làm việc với giới trẻ như thế nào (1) và chưa từng hiểu Cung Giũ Nguyên là ai.

Vậy Cung Giũ Nguyên là ai?

Cung giũ Nguyên là học giả (như ông nói, ông chẳng có bằng gì nên không phải học thật như nhiều người có nhiều bằng cấp), là nhà văn, là thầy giáo và là trưởng Hướng Ðạo. Suốt một trăm năm sống trên đời, ông đã tận tụy hết lòng cho thế hệ mai sau qua dạy học, viết sách và hướng dẫn thế hệ trẻ qua phong trào Hướng Ðạo. Kết hợp tư tưởng Ðông và Tây, giữa các phương pháp giáo dục ông đã không ngừng tận dụng “quỹ thời gian” để chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm. Ông không nản lòng khi biết thế hệ trẻ không còn muốn đọc sách nữa, mà luôn luôn tin tưởng rằng các đứa con tinh thần của ông sẽ kiên nhẫn như ông: Sẽ có ngày chúng sẽ được đọc và tìm hiểu như mọi người đang tìm hiểu như những cuốn sách đang kiên nhẫn trong các thư viện trên thế giới.

“Tôi hỏi ông câu hỏi cuối cùng về nhận định của ông khi giới trẻ bây giờ không thích đọc sách, ông trả lời bằng cách nói về dấu “…” bắt đầu và kết thúc trong Le Boujoum: “Cuộc đời không có chấm dứt, từ không đến có, rồi lại từ có đến không, qua những giai đoạn thành, thịnh, suy hủy, rồi thành, từ khôn đến càn, rồi lại tứ càn đến khôn, qua những giai đoạn thiếu âm, thái dương, thái âm, thiếu dương, mà vật lý học cho thấy qua điển hình của vòng Mobius… – một ngày kia người ta sẽ trở lại việc đọc sách”. Đó là câu nói khẳng định rất tự tin của ông – một người sống và viết gần một thế kỷ có rất nhiều biến động với một cuộc đời sôi nổi và đầy sáng tạo.” (Ðào Thị Thanh Tuyền, Cung Giũ Nguyên, Nhà giáo dục, Nhà báo, Nhà văn)

Và đúng là đã có người say mê đọc sách ông và hiểu được ông như:
“Tôi được lệnh tha năm 1981. Hộ khẩu tôi tại Sàigòn. Công an quản chế, hắc ám hết chịu nổi. Nhưng rồi cũng gồng mình mà sống. Lăn-lóc sống. Hồi hộp sống. Sống trong chờ đợi...không biết ngày nào công an sẽ vồ mình, vô tù. Cộng sản có hơn một ngàn lẻ một lý do để bắt chúng tôi trở lại trại tù tập trung! Đêm đêm ngủ không yên giấc, nghe tiếng chó sủa cũng sợ, nghe tiếng chân người láng giềng cũng sợ. Nhiều lúc thấy mình trong kiếng cũng sợ. Mình cũng không nhận ra mình là ai! Có lúc giữa ban ngày nhìn thấy cái bóng mình mà cứ ngỡ tên công an theo dõi! Nhưng nghĩ cho cùng Tù Tại Gia hay Tù Tập Trung cũng không khác gì mấy! Tù Tại Gia Cộng sản khỏi lo cơm nên chế độ nới một chút! Nhưng thiệt thòi cho vợ con, tăng thêm một miệng ăn đã đành, lại còn phải lo ngay ngáy! Bác sĩ thấy không? Trong khó khăn nẩy sinh sáng tạo: Biện Chứng Tù Tại Gia Và Tù Tập Trung Không Khác Gì Nhau. giúp đỡ anh em rất nhiều. Mặc Cộng sản bắt bớ hàng đêm hà rằm! Mặc, anh em chúng tôi cứ sống, thản nhiên! Mặc thời gian cứ trôi! Không ai chờ đợi ai! Không còn cái gì để chờ đợi! Không còn gì để hi vọng! Thân phận bi đát! Trong Le Boujum (1) nhà tư tưởng Cung Giũ Nguyên nói: ‘...Một vật lơ lửng trên vực thẩm, được những sợi tơ mành của hy vọng giữ lại...’

Đó là kiếp nhân sinh! Con người tồn tại hôm nay là nhờ họ sống trong hi vọng! Mặc dầu hy vọng nhỏ nhoi! Con người cần có hy vọng để mà sống! Nhưng " Hy vọng nơi ai? Hy vọng cái gì? Và có lý do gì để hy vọng? Chúng ta hòan toàn trơ trụi! Trước khi vô sản hóa nhân dân Miền Nam, Cộng sản lột trần chúng ta: không gia đình, không tổ quốc, không có riêng tư, không hi vọng cá nhân... Trước mắt chỉ có Quốc Tế Vô Sản! Quốc tế Vô sản ở đâu? Họ đưa tay chỉ vào khoảng không: ngày mai! Nghĩa là không có gì hết! Có phải chăng chúng ta phải tạo ra hi vọng: " ta cứ hy vọng thời gian kéo dài mãi, hay ít ra còn lâu nữa mới chấm dứt.... mặc dù đó là một hy vọng phi lý! Nhưng phải có hy vọng để tồn tại thì cần gì!

Nói đến đây anh quay lại hỏi tôi:

-Bác sĩ đọc xong Le Boujoum của Cung Giũ Nguyên chưa? Anh có vẻ giận. Tôi gượng cười! Vì cách đây mấy tháng anh đến văn phòng tôi. Anh thấy quyển Le Boujoum (Tiểu Thuyết Triết Lý của tác giả Cung Giũ Nguyên, xuất bản năm 1980 tại Pháp) để trên bàn tôi, anh có hỏi tôi đọc chưa. Tôi cũng thú thật là chưa đọc hết vì đó là quyển truyện chan hòa tư tưởng triết học Hiện đại và Cổ điển, Đông phương và Tây phương! Rất khó đọc! Anh có khuyên tôi nên đọc đi và có dịp mình nói về quyển sách đó. Không ngờ hôm nay anh đem nó ra mổ xẻ một cách lý thú mặc dù anh mới vừa đề cập một vài trang đầu.”
(Đào Như, Dấu Chân Người Lính, Oak park, Illinois, USA VN.NET 17/11/2008)

Có nhiều điều để nói về ông nữa, nhưng điều quan trọng khi nhận định về ông, chúng ta không nên quên ông là một người yêu nước. Với tài năng và kiến thức của mình, ông có thể ra nước ngoài sống dễ dàng thế mà ông đã chọn “quê hương làm chốn lưu đày”. Mặc dù trong suốt thời gian dài bị ngộ nhận của cả hai bên, ông vẫn bình thản, xử thế trung dung, đứng vững trong thời cuộc và tự tin sẽ có ngày được “giải đáp”, khám phá và công nhận bằng ngòi bút của mình. Ông gọi viết văn là để “trả nợ văn chương” nhưng thực ra ông đã hết lòng nhẫn nại góp phần diệt cái “DỐT” – Nguồn gốc của nghèo nàn, lạc hậu và bất công. Ðây là một thiện ý cao thượng, một lương tâm đầy trách nhiệm mà các thế hệ trẻ sẽ tìm thấy được trong các sách Văn Học cũng như các sách Hướng Ðạo của ông.

Ngày 7 tháng 11, năm 2008 Cung Giũ Nguyên đã từ giã cõi đời trên chiếc giường của ông như người đang ngủ yên bình giữa căn phòng chỉ toàn sách và sách. Những học trò của ông, cô đơn trên nước Mỹ, trên các nước khác hay lưu đày trên quê hương, đều là những kẻ thành danh và thành nhân. Ðã có không biết bao nhiêu người tiếc nhớ nhắc nhở đến ông và không biết bao nhiêu người bày tỏ lời chân tình qua các bài thơ bài họa và tưởng niệm như:

Tri Ân Thầy
Tưởng nhớ bậc Thầy Cung Giũ Nguyên
Giã từ trần thế lắm ưu phiền
Giáo sư học giả lừng danh tiếng
Huynh trưởng đầu đàn sáng phúc duyên
Thông bác văn chương còn dấu tích
Thăng hoa đạo đức mãi lưu truyền
Kính Thầy xin gởi bài thơ tiễn
Vọng tiếng tri ân tận cõi Tiên

Nguyễn Đình Sài (Đệ tử của Thầy năm 1957-1961)

Họa:
Xin tiễn đưa thầy Cung Giũ Nguyên
Từ nay rủ sạch hết ưu phiền
Cõi trần đau khổ nhiều oan nghiệp
Nước Chúa an bình lắm thiện duyên
Ngày xưa thầy rải bao tri thức
Bây giờ trò gặt lắm chân truyền
Thầy thênh thang bước vào thiên quốc
Chốn ấy thiên đường bạn với tiên.
Hương Cao (Học sinh Văn Hoá và Võ Tánh Nha Trang)

Họa:
Ngọc lành tưởng vỡ lại hoàn nguyên
Ba chục năm qua lắm não phiền
Tài lắm lắm khi còn vướng tiếng
Tình bằng bằng ấy mối lương duyên
Thái huyền* thế giới còn ghi tích
Nam Hải* trùng khơi vẫn dấu truyền
Thắp nén tâm hương ly rượu tiễn
Khóc Thầy Cung Giũ chốn thần tiên

Nguyễn Thanh Ty

Thái huyền: tên tác phẩm Le Boujoum
Nam Hải: tên tác phẩm Le fils de la Baleine

“Hôm nay Thầy đã giã từ “cõi người ta” để về lại quê quán, nơi Thầy đã đến.

Con xin dâng nén tâm hương và mượn mấy lời thơ của Tâm Minh Lê đình Thám để tiễn đưa Thầy lên đường:
“Trăm năm trước thì ta chưa có
Trăm năm sau có lại hoàn không
Cuộc đời sắc sắc không không
Trăm năm còn lại tấm long từ bi.”

(Nguyễn Thanh Ty, Chữ Trinh Còn Một Chút này!, Boston 10/11/2008)

“Thưa thầy, con vẫn tin rằng bây giờ thầy vẫn có thể đọc được những hàng chữ này của con. Hơn hai năm nay con đã quyết tâm giảm bớt lui tới nhà thầy để rồi một năm nay con đã ngưng hẳn việc lui tới nhà thầy. Con đã nói với thầy quyết tâm này rồi. Con là một mẫu người sentimental. Con sẽ rất đau khổ khi đi ngang nhà thầy mà không còn thầy ở đó. Thế nên con phải giảm bớt đi chuyện lui tới này để may ra tình cảm của con đối với thầy sẽ xuống thang từ từ và phần nào, ngõ hầu khi thầy không còn ở nhà số 60 Hoàng Văn Thụ Nha Trang đó nữa thì con bớt đau khổ hơn. Hôm nay quả thực con đã thấy suy nghĩ và quyết định của con là đúng. Bài viết hôm nay chỉ có tính chất thời sự chưa phải điều con đã từng hứa với thầy là con sẽ viết một cuốn sách dày về thầy để cho người ta thấy tính chất uyên bác, nhân văn, nhân bản, sâu sắc, tài hoa, và nhất là hài hước trong tác phẩm và trong con người của thầy. Con biết người ta ngộ nhận về thầy nhiều lắm. Thầy cũng biết rằng có rất nhiều tác giả văn hoc tài ba đã không nhận được giải Nobel Văn Học. Bây giờ thì CCC (Chim Cánh Cụt cũng có nghĩa là Chưa Chịu Chết) đã chịu chết. Requiescat In Pace (May he rest in peace, Mong Thầy an nghỉ – DCVOnline)
(Nguyễn Thành Thống, Nha Trang ngày 8/11/2008. Sau cơn mưa trời lại sáng. Vĩnh biệt Thầy Cung Giũ Nguyên. Nguồn Vietscience)

“Kính thưa Thầy,
Trong bức phát họa chân dung của Thầy in nơi bìa sau tác phẩm Le Boujoum có ghi lời đệ tử một thiền sư Trung quốc như sau: Khi chưa học với Thầy, thấy sông là sông thấy núi là núi. Khi theo học với Thầy, thấy sông không còn là sông thấy núi không còn là núi. Sau khi học với Thầy, thấy sông vẫn là sông thấy núi vẫn là núi.
Học trò cũ của Thầy đang sống nơi hải ngoại hay còn ở quê nhà trung bình đã học với Thầy hơn 40 năm rồi. Người trẻ nhất gần 20 năm, lớn nhất hơn 60 năm. Ngày nay, cách thấy sông, núi của mỗi người hẳn là khác nhau, và có thể khác cả cách thấy sông, núi của chính Thầy. Tuy nhiên, đối với rất nhiều người trong chúng con, hình ảnh Thầy không khác bao nhiêu. Đặc biệt, với thế hệ học trò Nha trang thuộc thập niên 50, hình ảnh đó gắn bó thân thiết với tuổi thơ chúng con. Không đơn giản chỉ là hình ảnh một người thầy có tài năng chuyển giao tri thức, mà dĩ nhiên Thầy có thừa khả năng đó trong phạm vi chuyên môn của Thầy. Gắn bó một cách đặc biệt vì đó là hình ảnh một vị Thầy khả kính biểu tượng của một thế hệ thầy giáo vào tuổi 100 mà chắc chẳng còn bao nhiêu ở lại với thế gian này, nhưng đã tác động sâu xa vào tâm hồn học trò mình”.
(Trương Hồng Sơn - Điếu văn của đại diện Trung tâm Cung Giũ Nguyên và một số học trò cũ của Thầy Nguyên ở hải ngoại)

Điếu văn
Chín mươi tuổi, ngồi trước bàn vi tính
Ngót một trăm, vẫn mê mải sách đèn.
Nhớ thầy xưa
Năm mươi năm về trước
Nửa thế kỷ trôi qua
Chúng con ra đời trong tao loạn
Trường lớp hiếm hoi
Trong số các thầy, may mắn được gặp thầy
Những đứa trẻ ngô nghê, trở thành học sinh trung học
Thầy đã dạy chúng con biết thế nào là học
Học thế nào để có thể làm người
Nhớ thầy xưa
Những lời thầy dạy, trăn trở cả cuộc đời
Thầy là tấm gương, là một người đối chứng
Tiếng tăm thầy là vô vàn hãnh diện
Uy tín thầy là tột đỉnh ước mơ
Thầy đã cho chúng con:
‘Volonté d’existence’, những ý chí sinh tồn
Đời thầy chẳng phải đầy dẫy những ý chí sinh tồn đó sao?
Thầy mở lối cho chúng con vào “Đời sống Tâm linh”
Thầy dẫn đường chúng con vào những khung trời triết học
Sống và chết với Nha Trang, thầy đến với ngư dân
“Le fils de la baleine”, là “Đứa con Nam Hải”
Buồn cho đất nước điêu linh, Thầy viết
“Le domaine maudit” - Miền đất dữ
Thầy đã chỉ cho mọi người: đâu là cõi “Thái Huyền”
“Le Boujoum” giờ đây chẳng phải là tiếng vang huyền thoại?
Thầy ơi Thầy, chúng con rất hãnh diện vì Thầy
Tên tuổi Thầy vang vọng khắp nẻo trời
Học thức Thầy khiến người người khăm phục
Thầy ơi Thầy
Lâu lắm rồi vẫn nhớ mãi nụ cười
Giọng Huế xưa chứa chan tình đất biển
Cặp mắt kia nhìn thấu mọi tâm can
Chúng con tin rằng:
Thầy nằm xuống, nhưng vẫn còn sống mãi
Trong trái tim đàn trò cũ thân yêu
Trước linh cửu
giờ đây
Xin bái biệt
Trần văn Sáu (đại diện cho những học trò cũ của Thầy từ năm 1950 trở về sau)

Trại ôn luyện BR6, LDT, THL (Phú Sơn 01/09/200). Nguồn: Trần văn Hồ
http://www.dcvonline.net/php/images/112008/cgn6.jpg

Tôi vẫn nghĩ là mình cứng rắn và mạnh mẽ lắm nhưng sau khi kết thúc bài viết này thì tôi cảm thấy mình như rũ đi. Có lẽ trong tâm thức, cái ý nghĩ về sự tan tác và chia lìa của những người trong thành phố Nha Trang và chuyện không thể tiễn đưa người bác ruột của mình cũng như những người thân còn ở quê hương mình đến nơi an nghỉ cuối cùng là nỗi đau trong lòng tôi. Giờ đây, khi nghĩ về bác Cung Giũ Nguyên, tôi sẽ tâm niệm những lời căn dặn của ông về phương châm sống. Những điều mà nhà văn Ðào Thị Thanh Tuyền đã ghi lại trong bài viết Cung Giũ Nguyên, Nhà Giáo Dục, Nhà Báo và Nhà Văn như sau:
“Phương châm sống của ông gói gọn trong bốn từ: nguyên, hanh, lợi, và trinh. Ông giải thích với tôi: ‘Nguyên là nguồn gốc – bất kỳ một việc gì cũng phải truy tìm cho được nguồi gốc và giải thích câu hỏi tại sao. Hanh là hanh thông – vượt lên những khó khăn; khi gặp khó khăn ta chia vấn đề ra thành những vấn đề nhỏ, từ vấn đề nhỏ chia thành những vấn đề nhỏ nữa và giải quyết từ từ. Lợi là lợi ích, lợi ích của mình phải gắn liền với lợi ích của người khác, những điều viết ra làm sao cho nhiều người trên thế giới đọc được. Trinh là hòa hợp – hòa hợp ở đây có ba ý: hòa hợp với thượng tôn, hòa hợp với tha nhân và hòa hợp với chính mình. Trong mỗi con người đều tồn tại ông thiện và ông ác, nhờ thượng tôn và những người xung quanh giúp đỡ để hòa hợp với chính mình.’”

HĐS, gia đình và thân quyến đưa tiễn Trưởng Cung Giũ Nguyên. Nguồn: Ảnh gia đình
http://www.dcvonline.net/php/images/112008/cgn7.jpg

Chủ nhật, 16 tháng 11 2008


DCVOnline mời bạn đọc nghe
A Life Story: Nhà Giáo, Nhà Văn, Học Giả, Trưởng HĐVN Cung Giũ Nguyên 1909-2008, SBS radio Vietnamese.
http://www.radio.sbs.com.au/language.php?news=archive&language=Vietnamese&page=2

------------------------------------------------------------
DCVOnline biên tập, đề tựa, chú thích và minh hoạ.

DCVOnline – (1) Trần Mai Ninh không thể “thấy Cung Giũ Nguyên làm việc với giới trẻ như thế nào và chưa từng hiểu Cung Giũ Nguyên là ai” đơn giản vì Nguyễn Thường Khanh (tên thật của Trần Mai Ninh) đã chết từ nằm 1947 và Cung Giũ Nguyên đã sống thêm 61 năm nữa để đóng góp với thế hệ mai sau. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (CHXHCNVN), đã chọn giới thiệu bài thơ Nhớ máu” như một tác phẩm tiêu biểu của Trần Mai Ninh (sáng táng 09/11/1946) trên trang web Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
Ở đây, tên “Cung Giũ Nguyên” được ghi đúng là “Cung Giũ Nguyên”.

Tài liệu tác giả tham Khảo và sử dụng
– Công Khanh, Thời Gian và Cung Giũ Nguyên, Tân Văn- 2008
– Cung Giũ Nguyên, Thư Mục Cung Giũ Nguyên 2002
– Ðào Thị Thanh Tuyền, Cung Giũ Nguyên, Nhà giáo dục, Nhà báo, Nhà văn
– Đào Như,
Dấu Chân Người Lính, Oak park,Illinois, USA VN.NET 17/11/08
- Học Bổng
Nha Trang Khánh Hòa
Thánh lễ an táng cho Nhà giáo và Trưởng Hướng Đạo Việt Nam: Cung Giũ Nguyên, JM Phạm Cảnh Đáng, Dân Chúa
Cung Giũ Nguyên, Wikipedia
Nhà văn Cung Giũ Nguyên từ trần, Nguyễn Đình Quân, Báo Mới
Cung Giũ Nguyên, nhà giáo dục nhà báo nhà văn, Đào Thị Thanh Tuyền, Trang Nhị Tường
Nhớ máu , (Trần Mai Ninh, Việt Nam)
Dòng văn học Pháp ngữ Cung Giũ Nguyên, Truyền Thông Communications, Mùa Thu 2004 Số 13
– Lời Chia Buồn, Phân Ưu và Tưỏng Niệm trong diễn đàn trường Võ Tánh và Nữ TrungHọc Nha Trang
Cung Giũ Nguyên Cần Mẫn Tìm và Trao Tặng Tri Thức , Mai Lĩnh, Trang Chip
– Nguyễn Hữu Thứ, Giáo Sư Cung Giũ Nguyên Một Nhà Trí Thức Huế Ðáng Kính, (trang 21-31) Tuyển Tập Nhớ Huế Canada- số 10 - xuân 1999
– Nguyễn Phụng, Thầy Cung Giũ Nguyên và Truyện Le Fils de la Baleine, Greensboro, North Carolina 4, 2002
– Nguyễn Thanh Ty, Chữ Trinh Còn Một Chút này! Boston 10/11/2008
– Nguyễn Thành Thống, Vĩnh biệt Thầy Cung Giũ Nguyên. Nha Trang ngày 08/11/2008. Nguồn Vietscience
– Nguyễn Xuân Hoàng: Thầy tôi, Nhà văn Cung Giũ Nguyên, Việt Tribune, năm 2001
Trần Mai Ninh và Bài thơ Nhớ Máu, Thanh Thảo, Việt Báo
– Trương Hồng Sơn: Điếu văn, đại diện Trung tâm Cung Giũ Nguyên và một số học trò cũ của Thầy Nguyên ở hải ngoại tháng 11, 2008


Re: Một đời cho mai sau (Kết)
2008-11-23 07:00:38
Lê Tùng Châu
Thật là một quý giá họa hoằn trên dcv hôm nay có bài về Ông CUNG GIŨ NGUYÊN (CGN)Ngoài những chi tiết khả kính về hành trạng một đời cống hiến và đạo đức của CGN, cái mà ta thấy hay quá là chen lẫn vào đó bài thơ Nhớ Máu của VC Trần mai Ninh, làm từ thời 1946!!!Vì sao hay ? Bởi những độc giả trẻ hơn đâu cần biết ông CGN mà chỉ cần đọc bài thơ “khủng” kia, ắt thấy sự tương phản giữa Hòa Bình-Văn Minh với Giết Chóc-Man Rợ mà hai đại diện của cả một thời cận đại là : QUỐC GIA-CỘNG SẢN trong giòng sinh mệnh oan khiên nghiệt ngã của dân VN ta.Bao lâu người Việt chưa nhận ra rằng, chỉ có Hòa Bình Nhân Ái mới đem lại “tăng trưởng”, “phát triển”, “bền vững”….thì những luận điệu ra rả như thế kia của VC (như trường hợp Thanh Thảo) mới hết lừa được ai.Tôi copy bài này và gởi cho 1 người bạn trẻ (sinh sau 1975), đọc xong, khi tôi hỏi cảm tưởng, anh nói : “Em không thể tin được cái gọi là cách mạng có thể đem lại “hạnh phúc” cho ai khi đằng đằng sát khí giết chóc như thế. Em nghĩ người CS là một đoàn người mắc bệnh BẠO SÁT “ Đó là anh chưa coi phim Chúng Tôi Muốn Sống, hay Trần mai Ninh nữa, không sống được đến hồi à“cách mạng long trời lở đất” của bác và đảng giết hại khoảng 300- 700 ngàn người vô tội miền bắc VN trong cải cách ruộng đất để “thấy mặt trời chân lí chói qua tim” . . . . .


Mời bạn xem phim Chúng Tôi Muốn Sống:
CTMSpart1 [www.anonproxy.ca]
CTMSpart2 [www.anonproxy.ca]
CTMSpart3 [www.anonproxy.ca]
CTMSpart4 [www.anonproxy.ca]
CTMSpart5 [www.anonproxy.ca]

CTMSpart1 [www.adrive.com]
CTMSpart2 [www.adrive.com]
CTMSpart3 [www.adrive.com]
CTMSpart4 [www.adrive.com]
CTMSpart5 [www.adrive.com]



No comments: