Tại sao Hòa thượng Thích
Quảng Độ bị ngược đãi và nằm trong tầm ngắm chính quyền suốt từ 1975 cho đến
ngày ông mất? Đó là vì ông bất tuân hợp tác và kiên định không cúi đầu. Thái độ
cứng rắn dứt khoát không khoan nhượng của ông là sự phản hồi trước sự đàn áp dữ
dội của chính quyền đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (GHPGVNTN)
sau 1975…
Ngay sau 30-4-1975,
GHPGVNTN lập tức trở thành một trong những mục tiêu số một được nhắm đến. Chùa
chiền bị chiếm. Sư sãi bị “đi cải tạo”. Các cơ sở tôn giáo bị tịch thu. Một
trong những sự kiện chấn động đầu tiên như một phản ứng trước các chiến dịch
đàn áp Phật giáo là vụ tự thiêu của 12 tu sĩ chùa Dược Sư ở Cần Thơ ngày
22-11-1975. Trong bản tuyên bố để lại, Đại đức Thích Tuệ Hiền viết: “Chúng tôi
sắp sửa thể hiện sự thiêu thân để bảo toàn Chánh Pháp, để bảo vệ danh nghĩa của
giới tu sĩ tại địa phương cũng như toàn quốc… Hành động của chúng tôi ngày hôm
nay là cốt đem tấm nhục thân này làm bó đuốc soi sáng cho những người mê muội
vô ý thức, những người với lòng lang dạ thú… Chúng tôi, Tăng Ni chùa Dược Sư,
tha thiết kêu gọi quý vị hãy tôn trọng tự do tín ngưỡng của tất cả mọi tôn
giáo…”.
Đã chẳng có sự “tự do tín
ngưỡng” nào được tôn trọng. Thậm chí, tình hình sinh hoạt Phật giáo tại miền
Nam ngày càng tệ hơn. Chưa đầy một năm sau sự kiện tự thiêu nói trên, ngày
22-7-1976, bằng Quyết định số 310/TTG với chữ ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng, chính
quyền bắt đầu bắt buộc tu sĩ từ 18-25 tuổi phải “thực hiện nghĩa vụ quân sự”.
Ngày 9-2-1977, Viện trưởng Viện Hóa đạo Thích Trí Thủ gửi Văn thư 0031/VHĐ/VP đến
Phạm Văn Đồng. Hai tháng sau, chính quyền “trả lời” bằng việc mở một chiến dịch
quy mô vây bắt hàng loạt chức sắc Phật giáo trong đó có Hòa thượng Thích Huyền
Quang (Phó Viện trưởng Viện Hóa đạo), Thượng tọa Thích Thông Bửu (quyền Tổng vụ
trưởng Tổng vụ cư sĩ), Hòa thượng Thích Quảng Độ (Phó Viện trưởng Viện Hóa đạo)…
Sự đàn áp Phật giáo được
thực hiện dữ dội và khốc liệt, như thể GHPGVNTN nói riêng và Phật giáo nói
chung là lực lượng đối lập “nguy hiểm” cần phải bị tiêu diệt. Không chỉ tống
Hòa thượng Thích Thiện Minh ra khỏi chùa, chính quyền còn ra lệnh tất cả chùa
chiền không được “chứa chấp” hòa thượng này. Cuối cùng, tháng 4-1978, thầy
Thích Thiện Minh bị bắt và giam ở số 4 Phan Đăng Lưu. Sau đó, ông được đưa qua
Chí Hòa và bị tra tấn đến chết. Như một cách phi tang chứng cứ, công an đưa xác
thầy Thích Thiện Minh ra trại cải tạo Hàm Tân (Phan Thiết). Ba hôm sau, thầy
Thích Trí Thủ được thông báo đi nhận xác. Thi thể thầy Thiện Minh vẫn còn đầy vết
bầm sưng tím và có dấu hiệu của xiết cổ…
Ngày 9-12-1978, chính quyền
tổ chức phiên tòa xét xử tội “chống đối nhà nước và âm mưu lật đổ chính quyền
cách mạng” đối với các tăng sĩ bị bắt một năm rưỡi trước đó. Thầy Thích Huyền
Quang và Thích Quảng Độ bị kết án bốn năm (hai năm tù giam, hai năm tù treo).
Tuy nhiên, trước áp lực quốc tế, hai vị được thả ngay sau phiên tòa. Ngày
11-10-1981, Hòa thượng Huyền Quang và Quảng Độ lại bị bắt. Việc tạm giam hai
nhân vật có ảnh hưởng này là nhằm chuẩn bị cho cái gọi là Đại hội Thống nhất Phật
giáo Việt Nam tổ chức tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) ngày 4-11-1981. Gần một năm
sau, cả hai vị được lệnh phải trở về nơi sinh quán. Thầy Huyền Quang bị áp giải
ra Bình Định rồi đến Quảng Ngãi để “ổn định cư trú theo quy định”. Trong khi
đó, thầy Thích Quảng Độ bị bắt đi cùng với mẹ già ra Thái Bình.
Sự đàn áp Phật giáo vẫn
không dừng lại. Tháng 3-1984, hàng loạt học giả Phật giáo bị bắt: Thích Tuệ Sĩ,
Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Thích Nguyên Giác, Thích Như Minh, Thích Nữ Huệ
Khương, Thích Nữ Trí Hải. Với loạt biến cố kinh khủng đối với Phật giáo, cùng với
sự truy bức tinh thần dữ dội, thầy Trí Thủ đổ bệnh. Thay vì để ông ở chùa Già
Lam trước thỉnh nguyện của nhiều Phật tử, ông được “nhà nước chăm sóc” bằng
cách đưa vào Bệnh viện Thống Nhất (Bệnh viện Vì Dân trước 1975). Tại đây, ông
đã chết một cách bất thường. Chưa đầy một tháng sau, Hòa thượng Thích Thanh
Trí, cánh tay mặt của thầy Trí Thủ, cũng chết một cách không bình thường tại một
bệnh viện ở Huế…
Ngày 27-3-1992, sau hơn
10 năm bị trục xuất khỏi Thanh Minh Thiền Viện (Phú Nhuận, Sài Gòn) và sống như
lưu đày ở Thái Bình, thầy Thích Quảng Độ tự ý bỏ vào Nam sau khi nhiều lần bị
công an Thái Bình bác bỏ “đơn xin đi đường” của ông. Tháng 4-1992, công an
TP.HCM ra công văn số 47/TL/PC13 yêu cầu thầy Quảng Độ rời Thanh Minh Thiền Viện
và phải trở ra Thái Bình trước ngày 19-4-1992. Bất chấp, thầy Quảng Độ vẫn ở lại
Sài Gòn. Tháng 10-1994, ông thậm chí công khai dựng bảng “Văn phòng Tổng thư ký
Viện Hóa đạo Lưu vong” tại Thanh Minh Thiền Viện.
Tiếp đó, ông ra Thông cáo
số 85/VPLU/VHĐ đề ngày 14-10-1994, tuyên bố chính thức tái hoạt động với cương
vị Tổng thư ký Viện Hóa đạo GHPGVNTN, đồng thời kêu gọi Phật giáo toàn quốc “dựng
lại bảng tên Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất tại các cơ sở, chùa chiền
thuộc Giáo hội”. Kết quả, ngày 31-12-1994, công an tràn vào chùa Thanh Minh, lục
soát, tịch thu tài liệu và dọa bắt thầy Quảng Độ nếu ông “tiếp tục ngoan cố”.
Ngày 4-1-1995, lúc 3g15 chiều, công an vây kín chùa Thanh Minh, bắn bể ổ khóa cửa
phòng riêng của thầy Quảng Độ và bắt ông đi. Lần này thì không ai có thể biết
ông bị giam ở đâu… Bất bình trước vô số hành động trấn áp Phật giáo nói chung
và trước sự kiện thầy Quảng Độ bị bắt, một nữ Phật tử người Đức tên Sabine
Kratze, 25 tuổi, đang du học tại Việt Nam, từng quy y tại chùa Linh Mụ, đã tự
thiêu. Sự kiện xảy ra lúc 7g15 tối ngày 3-9-1995, trong căn phòng F 2/2 ở lầu bốn,
khách sạn Mini, số 179 Lý Tự Trọng, quận 1, Sài Gòn.
Trong bài Nhận định về những
sai lầm tai hại của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc và Phật giáo Việt
Nam, được “viết tại xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Tháng 1 năm 1992
(ngày 14 tháng 12 năm Tân Mùi). Kỷ niệm năm thứ 10 bị quản thúc lưu đày” – như
được ghi ở cuối bài, thầy Thích Quảng Độ nói rằng ông “chẳng ân hận gì khi phải
chết cho sự thật”. Ông viết:
“Nay đến lượt tôi cũng đã
bị cộng sản Việt Nam giam cầm đày đọa suốt mười mấy năm rồi, chỉ vì cái ‘tội’
trung thành với lý tưởng đạo Phật, muốn bảo vệ nền văn hóa truyền thống của dân
tộc, di sản tinh thần và kiến trúc vật chất của tổ tiên, thế thôi, chứ có tranh
giành quyền lợi gì với ai đâu. Vì, theo tôi, văn hóa truyền thống và di sản
tinh thần của tổ tiên rất là quan trọng, nhờ đó mà dân tộc Việt Nam đã không bị
đồng hóa bởi các thế lực phong kiến, đế quốc và thực dân xưa cũng như nay, khi
thống trị Việt Nam trước sau có tới hơn nghìn năm. Dĩ nhiên, vì đã lâu đời nên
nền văn hóa cổ truyền của chúng ta cũng đã có những cái lỗi thời, ta nên bỏ đi,
rồi học hỏi những cái hay cái đẹp của thế giới mà bồi bổ thêm cho mạnh thì được,
chứ nếu chúng ta bảo nó đã lâu đời quá rồi, không còn thích hợp với đời mới nữa,
thôi bỏ hết nó đi để thay vào đó một thứ văn hóa hoàn toàn mới, hoàn toàn xa lạ,
thì chúng ta sẽ bị rơi vào tình huống:
Tây chẳng phải Tây, Đông
chẳng Đông
Quỷ quái sinh ra lũ cuồng ngông
Mồ mả tổ tiên cày xới hết
Đình chùa miếu mạo phá bằng không
Ông bà xem nhẹ hơn con lợn
Bố mẹ coi như khúc gỗ thông
Phảng phất non sông hồn Lạc Việt
Bốn nghìn tuổi sử tủi hay không?!"
Quỷ quái sinh ra lũ cuồng ngông
Mồ mả tổ tiên cày xới hết
Đình chùa miếu mạo phá bằng không
Ông bà xem nhẹ hơn con lợn
Bố mẹ coi như khúc gỗ thông
Phảng phất non sông hồn Lạc Việt
Bốn nghìn tuổi sử tủi hay không?!"
“Tủi hay không?”. Điều gì
khiến không chỉ ông tủi mà dường như dân tộc này cũng đau lòng khôn dứt? Có phải
đó là hiện trạng Phật giáo không chỉ biến tướng mà còn được thay bằng một thứ
tôn giáo trá hình? Hay là cái thực tế “Ông bà xem nhẹ hơn con lợn/ Bố mẹ coi
như khúc gỗ thông”? Hoặc phải chăng là một tình trạng đầy ngao ngán “Tây chẳng
phải Tây, Đông chẳng Đông/Quỷ quái sinh ra lũ cuồng ngông”?...
Tủi hay không? Có ai còn
biết tủi hổ nữa hay không?
(Nguồn tham khảo chính:
Phật Giáo Việt Nam - Biến cố và Tư liệu, Văn phòng Thường trực Điều hành, Phật
Lịch 2540/1996)
No comments:
Post a Comment