Tân Phong
22/01/2018
Phần
1: Xuất khẩu nô lệ và kiều hối
*
Xuất
khẩu nô lệ: 11 tỷ USD/năm và hơn thế nữa!
Một
báo cáo của Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh, Xã hội - ông Đào
Ngọc Dung về tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam cho biết con số
126.000 lao động năm 2016 đã mang về một khoản ngoại tệ hơn 11 tỷ USD.
Hơn 80% nguồn lao động này cung cấp cho thị trường lao động Bắc Á khu
vực Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản…
Con
số lao động xuất khẩu 2017 là hơn 120.000 lao động và đang đóng góp
một nguồn ngoại tệ cực kỳ quan trọng đối với Hà Nội trong bối cảnh
áp lực trả nợ quốc tế tăng cao, kiều hối giảm sút, khủng hoảng
trong lĩnh vực khai khoáng và thâm hụt thương mại gia tăng.
Con
số 11 tỷ USD trở thành nguồn ngoại tệ sống còn của thể chế, cao hơn
nhiều số tiền xuất siêu nhờ hoạt động thương mại chỉ mang về hơn 3
tỷ USD trong số hơn 400 tỷ USD tổng xuất nhập khẩu quốc gia. Cùng với
lượng kiều hối, tuy đã giảm mạnh, nhưng vẫn đạt hơn 7 tỷ USD/năm 2017,
đã giúp cho thể chế CSVN kéo dài thời gian tồn tại và trả nợ quốc
tế trong 3 năm tới.
Lần
đầu tiên, sau 43 năm thống nhất, những người Việt Nam đã xếp hàng xin
visa để sang Cambodia và Laos để tìm việc phổ thông trong ngành xây
dựng đang phát triển ở những quốc gia mà bấy lâu nay trong tiềm thức
bị người Việt coi rẻ, kinh thường.
Không
có gì ngạc nhiên khi ở nhiều tỉnh thành Việt Nam, hệ thống chính quyền
đặt mục tiêu xuất khẩu lao động là “nhiệm vụ chính trị”. Đặc biệt,
ở các tỉnh miền Trung như Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh… nơi việc làm
tại chỗ rất khó khăn. Thảm họa môi trường Formosa ảnh hưởng lớn đến
cơ cấu kinh tế địa phương mà theo đánh giá sơ bộ của Bộ KHCN thì hơn
24.000 lao động mất việc làm và GDP mất 0.3% trong năm 2016 vì thảm
họa này.
Thảm
họa môi trường biển do Formosa gây ra khiến hơn 24.000 lao động mất việc. Ảnh:
enternews.vn
Nguồn
lao động xuất khẩu mang về một khoản ngoại tệ lớn là một miếng đất
màu mỡ của Bộ LĐTBXH. Ngoài ra, hàng chục năm qua, các công ty phái
cử của Bộ LĐTBXH luôn thu một khoản “đặt cọc”, chi phí nằm ngoài qui
định của các thị trường nước nhập khẩu lao động. Số tiền này rất
lớn khi mỗi lao động phải chi hàng trăm triệu đồng “thế thân” để được
đi bán sức lao động ở “xứ giãy chết”.
Không
ai biết số tiền “thế thân” này đi đâu và người lao động có nhận lại
số tiền này sau hết thời gian làm việc, trở về nước hay không?
Số
tiền lãi từ việc “chiếm dụng” khoản tiền “thế thân” bất hợp pháp
này trong nhiều năm thì vào túi ai? Chắc chắn, số tiền khổng lồ này
không thể nào các công ty phái cử của Bộ LĐTBXH nuốt trọn, nếu không
muốn bị “móc họng” những quota “nô lệ” những năm tiếp theo.
Hầu
hết, các gia đình có con em đi lao động nước ngoài đều phải thông qua
các công ty phái cử (cò mồi của bộ LĐTBXH). Họ phải cầm cố nhà
cửa, vay nợ lãi ngân hàng, tín dụng đen để nộp tiền “thế thân”.
Số
tiền lương không đủ trả nợ sau khi bị cắt xén, khấu trừ các thuế
loại thu nhập, các loại bảo hiểm… trước khi bị qui đổi sang tiền
Việt theo tỷ giá “qui định” luôn thấp hơn thị trường tự do. Đối mặt
với áp lực trả nợ, các lao động Việt Nam thường xuyên trốn ra ngoài
để tìm việc lương cao hơn, tìm cách ở lại để kéo dài thời gian “cày
trả nợ” và trộm cắp khi có cơ hội.
Thậm
chí, họ được các “cò lao động chui” xúi bẩy, đưa ra các mức lượng
cao để “nhử” người lao động trốn ra ngoài, phá vỡ hợp đồng, chấp
nhận mất tiền cọc “thế thân”. Thực tế, rất nhiều người phải đối
mặt với việc bị chủ ngược đãi, cắt phạt lương vô cớ, làm việc trong
điều kiện không bảo đảm an toàn lao động, sinh sống trong môi trường tệ
hại và có thể bị cảnh sát nước sở tại bắt giam, đánh đập và trục
xuất bất cứ lúc nào nếu bị phát hiện…
Họ
rơi vào bẫy của những đường dây buôn nô lệ ở thế kỷ 21 và bị cái
gông cùm nợ nần ở quê nhà treo trên cổ, đáng sợ hơn cả án tử hình.
Hoàn
cảnh tương tự đối với những cô gái Việt Nam ra nước ngoài dưới Hộ chiếu
du lịch và ở lại làm việc trong các nhà thổ ở Malaysia, Thailand,
Singapore, Nga, Rumani, các nước khối Đông Âu cũ…
Riêng
ở Malaysia, năm 2012, cảnh sát nước này cho biết, gái mại dâm nước
ngoài nhiều nhất đến từ Việt Nam, khoảng 5000 “nàng kiều” thường
xuyên nhập cảnh dưới dạng du lịch mỗi năm. Con số này “tăng trưởng”
nhanh chóng cùng với vấn nạn “cô dâu Việt” được giao bán trên mạng xã
hội và chương trình tivi với giá niêm yết 3000-5000 USD để làm nô lệ
tình dục. Đó là bức tranh chung của lao động Việt Nam ở nước ngoài.
Thảm
trạng này đã và đang biến những người Việt Nam thành nô lệ ở thế
kỷ 21 cho những thị trường lao động trong nhiều thập niên qua và tạo
ra một “thương hiệu quốc gia” mang đặc trưng “định hướng xã hội chủ
nghĩa” là ăn cắp và đĩ điếm.
Một
ước tính khoảng ½ triệu gái mại dâm, “cô dâu Việt” trên khắp gầm trời
trên thế giới, hàng năm mang về cho CSVN con số ngoại tệ không hề nhỏ.
Đằng sau những ngôi nhà lầu khang trang ở những miền quê chiêm trũng
như Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Hải Phòng… là những bi kịch thảm khốc, cay
đắng của những cô dâu và “nàng kiều” xứ Việt nhưng lại được chính
quyền sở tại tự hào về thành tích “xuất khẩu nô lệ” ngày. Sự
“thịnh vượng” giả tạo được xây trên những trả giá ô nhục đầy máu và
nước mắt người con gái Việt Nam.
Năm
2013, một báo cáo của tổ chức chống buôn người có tên “Liên minh bài
trừ nô lệ mới Châu Á - CAMSA” có trụ sở tại Mỹ, đã công bố điều tra
về 15 người phụ nữ Việt bị lừa bán sang Nga và bị ép bán dâm tại
nhà thổ của một tú bà có tên Nguyễn Thúy An. Trước chứng cứ điều
tra của CAMSA và sự can thiệp của Mỹ, tú bà Nguyễn Thúy An đã phải
trả lại giấy tờ cho 15 người phụ nữ trong danh sách và đưa họ về
Việt Nam.
Cảnh
lao động chui bị cảnh sát Nga bắt giữ trong một cuộc truy quét.
Tham
tán công sứ của đại sứ quán Việt Nam tại Nga là Nguyễn Đông Triều,
người được cho là có quan hệ mật thiết với tú bà Nguyễn Thúy An đã
tránh né công luận. Sự việc dần đi vào quên lãng. Theo CAMSA thì có
hàng chục ngàn lao động Việt Nam tại Nga theo dạng “chui”, bị lừa bán
vào các công xưởng lao động cưỡng bức và nữ giới có nhan sắc thì
trở thành gái điếm.
Vấn
nạn nhức nhối này từ những năm 90 của thế kỷ trước, khi Liên Xô sụp
đổ, thế giới mafia Đỏ tại “thành trì Cộng sản quốc tế” lên ngôi. Hệ
thống ngầm giữa quan chức cảnh sát Nga “tự diễn biến” và đại sứ
quán các nước có những hoạt động phi pháp trong đó Việt Nam là “đối
tác truyền thống” được xây dựng rất vững chắc.
Năm
2008, truyền hình Nam Phi SACB đã công chiếu đoạn video về việc tùy
viên đại sứ quán Việt Nam ở Nam phi là Vũ Mộc Hoa giao dịch buôn bán
sừng tê giác với những kẻ buôn bán động vật quí hiếm trong danh sách
CITEs cùng phương tiện vận chuyển là chiếc xe của tham tán thương mại
Phạm Công Dũng.
Sự
kiện này, sau đó, nhanh chóng “chìm xuồng” khi Việt Nam triệu tập bà
Mộc Hoa về nước để “làm rõ”. Năm 2017, sự kiện mật vụ Việt Nam vụ
bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ngay ở Berlin cho thấy Việt Nam đã xây dựng
những hệ thống an ninh mật vụ ở các sứ quán để có khả năng thực
hiện các việc làm trái pháp luật. Thậm chí, họ bất chấp những
hoạt động phạm pháp ở mức độ nguy hiểm cao nhất.
Hầu
như tất cả hoạt động buôn người, cấp visa, giấy tờ giả, chuyển tiền,
buôn lậu,… đều có sự bảo kê và hỗ trợ của hệ thống mật vụ tại
các sứ quán Việt Nam ở các nước. Hệ thống ngầm buôn người và hàng
lậu này nằm trong tay Bộ Công An và Tình báo Quân đội kiểm soát, mang
về nguồn lợi khổng lồ cho các tướng tá trong ngành và các Ủy viên
BCT qua nhiều thời kỳ. Đồng thời, đây là nguồn thu ngoại tệ quan
trọng của nhà cầm quyền Việt Nam.
Thời
gian qua, mạng xã hội xôn xao về một thiếu gia còn rất trẻ, cháu nội
của tướng Giáp, sở hữu những bộ sưu tập siêu xe và đồng hồ hàng
chục triệu USD, được cho là đầu mối quan trọng của đường dây buôn lậu
kim cương, hàng xa xỉ ở Châu Âu về Việt Nam. Đây chỉ là một “‘ví dụ’
be bé, xinh xinh” của những tư bản Đỏ giàu có “nứt đố đổ vách” bắt
nguồn từ thể chế độc Đảng và tham nhũng quyền lực.
Kiều
hối: Khúc ruột ngàn dặm có giá trăm tỷ USD
Một
con số ước tính tương đối chính xác cho lượng kiều hối Việt Nam từ
sau năm 1986 là thời điểm Việt Nam “mở cửa” cải cách kinh tế và thu
hút nguồn ngoại tệ kiều hối của cộng đồng người Việt hải ngoại
đầu tư về Việt Nam cho tới nay vào khoảng 120 tỷ USD.
Thật
kỳ lạ là con số này khá tương đương với lượng USD được quan chức
cộng sản chuyển ra nước ngoài để mua bất động sản và gửi nhà băng.
Đây hẳn là một nghiên cứu thú vị, đáng cấp bằng Tiến sĩ rất nghiêm
túc nếu có điều kiện điều tra khách quan sự so sánh trùng lặp thú
vị này.
Tất
nhiên, không cần là một nhà nghiên cứu xã hội và kinh tế cấp độ
tiến sỹ thì có thể thấy một lượng lớn kiều hối đã rót vào thị
trường BĐS – nơi mà quan chức CSVN và giới thân hữu nắm giữ – đã mang
lại một khoản ngoại tệ kếch xù cho những tư bản Đỏ.
Lượng
kiều hối mang về trung bình hơn 11 tỷ USD/năm trong giai đoạn 2010-2015. Ảnh:
Internet
Những
đồng Mỹ Kim này không mang lại nhiều hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân
mà chạy ngược trở lại nơi chúng xuất phát và nằm im trong những tài
khoản bí mật ở Thụy Sĩ của những ủy viên Bộ chính trị hay trở thành
“vốn làm ăn” cho những “thái tử Đảng” thế hệ thứ 3 như Võ Trung.
Cuối cùng, nguồn Tư Bản từ các nước XHCN lại quay trở về nơi chúng
sinh ra và vòng quay của nó, làm giàu có thêm cho bọn “tư bản giãy
chết”. Bọn tư bản thật là thâm độc biết chừng nào!
Lượng
kiều hối đạt đỉnh vào những năm 2010-2015, khi mỗi năm mang về trung
bình hơn 11 tỷ US/năm, ngay cả ở thời kỳ suy thoái kinh tế nghiêm
trọng nhất đã giúp cho CSVN nguồn ngoại tệ mang tính quyết định cán
cân ngoại hối quốc gia, bên cạnh nguồn ngoại tệ thu được từ việc
“xuất khẩu nô lệ”. Chỉ riêng ở hai lĩnh vực này, CSVN thu về hơn 20
tỷ USD/năm. Không phải là từ thặng dư thương mại xuất siêu, không phải
là từ các ngành khai khoáng, dầu mỏ…
Đây
mới là hai nguồn tiền ngoại tệ cơ bản nhất đảm bảo cho đến giờ thể
chế CSVN vẫn tồn tại và khỏe re nhờ hút máu những người lao động xa
xứ, những “nàng kiều” và cô dâu Việt Nam cũng như nhờ tình thương yêu
Tổ quốc của cộng đồng hải ngoại trở về “xây dựng” quê hương.
Còn
tiếp...
Tân Phong
20.01.2018
20.01.2018
*
*
Cùng
tác giả:
No comments:
Post a Comment