Gregory
Poling -
Foreign
Affairs
Huỳnh
Hoa dịch - Viet-studies
29-1-2018
Làm
thế nào ứng phó với việc Bắc Kinh tiếp tục gia tăng xây dựng quân sự?
Hôm
30 tháng 12, truyền hình nhà nước Trung Quốc chiếu đoạn phim quay từ trên cao
miêu tả những căn cứ mà nước này thiết lập trên đá Chữ Thập (Fiery
Cross) ở Biển Đông. Đoạn video là những hình ảnh cận
cảnh đầu tiên được trình chiếu cho thấy trạng thái hoàn chỉnh của một căn cứ
không quân và hải quân vững chắc trên một bãi đá tranh chấp trong quần đảo Trường
Sa (Spratly).
Hồi
đầu tháng 12, Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên
cứu và Chiến lược quốc tế (CSIS) đã công bố những ảnh chụp từ vệ tinh, ghi nhận
việc xây dựng các nhà để máy bay, trạm tên lửa, trạm thu thập tín hiệu thông
tin tình báo và nhiều cơ sở hạ tầng quân sự khác trên đá Chữ Thập, cũng như
trên các đá Subi và đá Vành Khăn (Mischief) trong suốt năm
2017. Nhưng đoạn phim quay từ trên không đã làm rõ quy mô của sự gia tăng quân
sự bất ngờ của Trung Quốc mà ảnh chụp từ vệ tinh không làm được.
Đây
có thể là hồi chuông cảnh tỉnh cho cả Manila và Washington rằng Bắc Kinh không
hề thay đổi chiến lược dài hạn là sử dụng việc cưỡng ép và nếu cần thì dùng sức
mạnh quân sự để thiết lập sự thống trị trên toàn Biển Đông. Bất chấp những quy
tắc tế nhị về ngoại giao và cuộc thảo luận có phần không thực tế về một bộ Quy
tắc Ứng xử trên Biển Đông, viết tắt là COC (Code of Conduct), với
các nước có tuyên bố chủ quyền khác, hành động của Trung Quốc đang xói mòn câu
chuyện rằng Bắc Kinh nghiêm chỉnh trong việc tìm kiếm một giải pháp ngoại giao
hợp tình hợp lý cho cuộc tranh chấp.
ĐÁNH
GIÁ Ý ĐỊNH CỦA BẮC KINH
Ở
Philippines, đoạn video về đá Chữ Thập đã khơi dậy mối quan
tâm của báo chí và dẫn tới một phản ứng không rõ ràng của chính phủ. Ngày 8
tháng 1, bộ trưởng quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana nói việc bố trí vũ
khí và binh lính trên các đảo đá mà Trung Quốc chiếm đóng là vi phạm cam kết của
Bắc Kinh năm 2015 (cam kết mà chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đưa ra với tổng
thống Mỹ Barack Obama) rằng Trung Quốc sẽ không quân sự hóa các tiền đồn trong
quần đảo Trường Sa. Ông Lorenzana nói rằng nếu một hành động như vậy được chứng
minh là đúng thì ông sẽ yêu cầu bộ ngoại giao Philippines phản ứng bằng một phản
kháng ngoại giao. Nhưng chỉ một ngày sau, phát ngôn viên của tổng thống
Philippines Harry Roque gạt bỏ cái ý tưởng rằng Bắc Kinh đã làm gì đó sai trái.
Ông nhấn mạnh rằng, Bắc Kinh đã hành động với “thiện chí” chừng nào họ chưa bồi
đắp các đảo và đá hiện còn bỏ trống, hàm ý nói việc Bắc Kinh tiếp tục tăng cường
quân sự trên 7 đảo và đá họ đã chiếm đóng ở Trường Sa là chuyện Manila chấp nhận
được. Những câu trả lời mâu thuẫn trước việc liệu có phải Trung Quốc đã vi phạm
cam kết hay không cho thấy cuộc tranh luận đang diễn ra trong nội bộ
Philippines, và hầu như khắp cả Đông Nam Á, về cách thức đo lường ý định của Bắc
Kinh.
Ngày
17 tháng 1, tàu khu trục USS Hopper thực hiện chuyến đi ngang vô hại qua vùng
lãnh hải của bãi Cỏ Rong (Scarborough Shoal) đã kích hoạt một
sự khác biệt quan điểm tương tự. Chuyến đi đánh dấu cuộc hành quân về tự do
hàng hải đầu tiên ở gần bãi cát ngầm này (mà Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát từ
tay Philippines năm 2012) kể từ khi việc triển khai Chương trình Tự do Hàng hải
ở Biển Đông bắt đầu thu hút sự quan tâm rộng rãi vào cuối năm 2015. Phản ứng lại,
ông Roque gọi đây là chuyện riêng của Trung Quốc và Mỹ và nói rằng Philippines
không can dự mặc dù Philippines vẫn luôn khẳng định bãi Cỏ Rong là lãnh thổ của
mình. Ông Lorenzana, trái lại, nhanh chóng lên tiếng bảo vệ cuộc hành quân này
mà ông cho là hoàn toàn hợp pháp.
Cuộc
đăng quang của tổng thống Philippines Rodrigo Duterte hồi tháng 6-2016 cung cấp
một cơ hội mà Trung Quốc vui mừng nắm lấy. Là người chống Mỹ về ý thức hệ, ông
Duterte đã nhanh chóng xếp xó phần thưởng mang tính cột mốc của Tòa trọng tài
quốc tế PCA tháng 7-2016, theo đó đòi hỏi của Bắc Kinh về chủ quyền lịch sử ở
Biển Đông là bất hợp pháp và khẳng định đặc quyền của Manila trong vùng biển và
đáy biển đã được luật pháp quốc tế công nhận. Ông Duterte cũng tuyên bố tách nước
ông khỏi Hoa Kỳ về chính sách kinh tế và quân sự, đồng thời tìm kiếm quan hệ mật
thiết hơn với Trung Quốc. Cho đến nay ông Duterte vẫn chưa đi được quá xa trong
nghị trình này mà vẫn bị kiềm chế bởi giới quân sự và guồng máy hành chính, bởi
các thành viên quốc hội Philippines và cả công luận – đa số thân Hoa Kỳ và hoài
nghi Trung Quốc. Tuy vậy, ông Duterte vẫn tiếp tục thúc đẩy chính sách cầu thân
với Bắc Kinh – một chính sách mà theo đó Manila giữ im lặng về những điểm bất đồng
giữa hai nước để đổi lấy những lời hứa tới nay vẫn chưa được thực hiện rằng Bắc
Kinh sẽ gia tăng đầu tư [vào Philippines] và xử lý hòa bình các cuộc tranh chấp.
Từ
mùa thu năm 2016, Bắc Kinh đã chìa nhành ô-liu ngoại giao cho nhiều chính phủ
Đông Nam Á và tránh kích động những cuộc đối đầu mới trên Biển Đông. Đến tháng
5-2017, bộ ngoại giao Trung Quốc công bố các nhà đàm phán đã đạt được thỏa thuận
về dự thảo “khung” cho một bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC) giữa Trung Quốc
và các thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tháng 8-2017, bộ
trưởng ngoại giao của 11 quốc gia tham gia đàm phán đã chính thức chấp nhận một
“khuôn khổ” chỉ dài 1 trang giấy và hy vọng sẽ khởi động các cuộc đàm phán về
COC vào tháng 3-2018. Căng thẳng vẫn còn trong quan hệ giữa Trung Quốc với
Indonesia, Philippines và đặc biệt là với Việt Nam, nhưng không thể phủ nhận rằng
chúng đã được làm dịu đi. Vấn đề là liệu bước tiến này đánh dấu một bước chuyển
đổi chiến lược dài hạn của Bắc Kinh hoặc chỉ là một cuộc điều chỉnh chiến thuật
trước khi bắt đầu một đợt leo thang mới. Nói cách khác, liệu Bắc Kinh có thật sự
hành động với thiện chí hay không?
MỘT
CHÍNH SÁCH CƯỠNG BỨC
Cuộc
tranh luận giữa những kẻ hoài nghi Trung Quốc và những người thúc đẩy sự thỏa
hiệp không phải là hiện tượng chỉ có ở Philippines mà diễn ra ở mọi quốc gia có
vai trò quan trọng trong cuộc tranh chấp Biển Đông, gồm Indonesia, Singapore,
Việt Nam và cả Hoa Kỳ. Sau gần một thập kỷ leo thang đều đặn và không có triển
vọng thực tế nào trong việc giải quyết cuộc tranh chấp về chủ quyền biển đảo, sức
hấp dẫn của một bước đột phá về ngoại giao, cho dù không chắc sẽ có được, và ước
muốn trông cậy vào thiện chí của Trung Quốc trong việc đạt tới một bước đột phá
như vậy, là hoàn toàn có thể hiểu được. Nếu không như vậy, chẳng lẽ phải chuẩn
bị cho một giai đoạn kéo dài hàng chục năm nữa với những vụ gia tăng căng thẳng
về quân sự, những xung đột thỉnh thoảng lại bùng lên, với những vụ tố giác lẫn
nhau mà không bảo đảm một giải pháp thành công nào?
Thật
không may, các dữ kiện đều không ủng hộ cho cái giả thuyết rằng Trung Quốc sẵn
sàng từ bỏ biện pháp cưỡng bức quân sự và đi tới một thỏa thuận công bằng với
các nước láng giềng. Trong suốt năm 2017, trong khi bàn bạc các nỗ lực ngoại
giao với các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, Trung Quốc đã xây dựng các
cơ sở đồn trú rộng tới 72 mẫu, hay là 290.000 mét vuông, trên hai quần đảo
tranh chấp Hoàng Sa (Paracel) và Trường Sa. Các tiền đồn lớn
nhất ở Trường Sa, trên đá Chữ Thập, đá Vành Khăn và đá Subi, giờ đây có những hầm
ngầm dưới lòng đất để chứa nước, nhiên liệu và đạn dược đủ cho các căn cứ không
quân và hải quân quan trọng. Mỗi căn cứ này lại đầy dẫy những dàn radar mới,
các bộ cảm biến điện tử và những thiết bị thu thập tín hiệu tình báo để bảo đảm
rằng không có vật gì di chuyển trên Biển Đông mà Bắc Kinh không biết. Hoạt động
của các máy bay chiến đấu và máy bay vận tải quân sự do không quân Trung Quốc
điều hành trên quần đảo Hoàng Sa hồi tháng 10 và tháng 11 năm ngoái cho thấy
trước chuyện gì sẽ diễn ra ở Trường Sa, nơi có 72 nhà chứa máy bay chiến đấu và
hơn một tá nhà chứa máy bay cỡ lớn khác đang chờ được bố trí máy bay. Và có những
doanh trại được gia cường sẵn sàng để bố trí các dàn hỏa tiễn di động nhằm bảo
vệ các cơ sở tấn công này khỏi sự trả đũa của Hoa Kỳ và các đối thủ khu vực.
Trong
lúc xây dựng các tiền đồn quân sự năm 2017, Trung Quốc cũng không hoàn toàn ngồi
yên. Vào tháng 8, Bắc Kinh phái một đội tàu quân sự và dân sự tới đảo Thị Tứ (Thitu) do
Philippines kiểm soát ở Trường Sa, nơi có khoảng 100 người dân thường sinh sống,
để đáp lại việc ngư dân Philippines đến trú trên một bãi cát nhỏ không có người
gần đó. Trước đó vào tháng Tư, Trung Quốc đã cảnh cáo và xua đuổi chiếc máy bay
chở bộ trưởng quốc phòng Philippines Lorenzana ra thăm viếng đảo Thị Tứ, nói rằng
ông ta đang bay vào không phận Trung Quốc. Tại thời điểm đó, bộ trưởng quốc
phòng Lorenzana đã phản ứng bằng cách gạt bỏ chuyện này, ông nói với báo chí rằng
chuyện đó vẫn thường xảy ra mỗi khi có máy bay của Philippines bay tới đảo Thị
Tứ. Cũng trong tháng Tư, có báo cáo rằng nhân viên tàu hải giám Trung Quốc đã bắn
vào ngư dân Philippines gần một đảo đá tranh chấp không có người ở. Suốt năm
qua, hải giám Trung Quốc thường xuyên có mặt ở cụm bãi cạn Luconia trong vùng đặc
quyền kinh tế của Malaysia và ở bãi cạn Cỏ Rong trong vùng đặc quyền kinh tế của
Philippines, nơi ngư dân Philippines được phép đánh cá quanh bãi cạn dưới sự
canh chừng (và đôi khi quấy nhiễu) của hải giám Trung Quốc nhưng không được đi
vào vùng đầm phá bên trong do Trung Quốc kiểm soát. Đáng lo ngại nhất là vào
tháng Bảy, chính phủ Trung Quốc đe dọa dùng vũ lực quân sự để ngăn cản Việt Nam
xúc tiến hoạt động khoan dầu khí của tập đoàn Repsol (Tây Ban Nha) ở bãi Tư
Chính (Vanguard Bank) – một vùng biển nằm ở cực nam của đường
lưỡi bò chín đoạn mơ hồ mà Trung Quốc vẽ ra để phân định ranh giới tuyên bố chủ
quyền trên biển của mình. Hà Nội bị buộc phải đình chỉ hợp đồng với Repsol sau
khi công ty này đã bỏ hàng trăm triệu đô la vào việc thăm dò và khoan dầu khí.
Các
nhà hoạch định chính sách như Roque và bộ trưởng ngoại giao Philippines Alan
Peter Cayetano đã bỏ qua, hoặc giải thích vòng vo, những hành vi cưỡng bức và
hoạt động quân sự hóa kéo dài ấy của Trung Quốc bởi vì họ coi những hành vi đó
là tương đối không quan trọng khi cân nhắc, so sánh với triển vọng đàm phán về
COC cuối cùng sẽ diễn ra. Với một thỏa thuận khung có trong tay và những cuộc
thương thảo dự kiến bắt đầu vào tháng Ba, cảm xúc của họ là có thể hiểu được
nhưng cũng quá hấp tấp và non nớt. Thỏa thuận khung chỉ dài 1 trang giấy gồm những
điều chung chung và sơ lược. Nó không đụng chạm tới bất kỳ vấn đề khó khăn nào
cần phải được giải quyết để tiến tới một COC có hiệu lực thi hành, và Trung Quốc
không hề bộc lộ ý định rằng họ sẵn sàng thỏa hiệp trong bất kỳ vấn đề nào.
Đã
có nhiều cuộc tranh luận chung quanh vấn đề liệu Bắc Kinh có đồng ý với một COC
có tính ràng buộc về pháp lý hay không – một điều không được bàn tới trong thỏa
thuận khung nhưng là phần không thể thiếu để một thỏa thuận có hiệu lực. Nhưng
đây không nhất thiết là vấn đề khó khăn nhất cần phải giải quyết, cũng không phải
là điều quan trọng nhất. Ví dụ, không có chỉ dấu nào cho thấy các quốc gia có một
nhận thức chung về phạm vi mà COC sẽ áp dụng. Liệu COC có bao hàm cả quần đảo
Hoàng Sa cũng như quần đảo Trường Sa hay không? Những nơi như bãi Tư Chính mà
chỉ riêng Trung Quốc mới coi là điểm tranh chấp thì sao? Những cuộc thảo luận
chính thức vẫn chưa bắt đầu đụng chạm tới những chi tiết như cơ chế quản lý nghề
cá, cùng phát triển dầu khí, bảo vệ môi trường và thực thi luật pháp ở các vùng
nước tranh chấp. Làm thế nào mà các quốc gia hòa giải tuyên bố của Trung Quốc về
quyền lịch sử với luật pháp quốc nội của họ và luật pháp quốc tế? Làm thế nào
giải quyết những bất đồng về cách diễn dịch nội dung của bộ Quy tắc?
Trong
các vấn đề này không có vấn đề nào là không thể giải quyết được, nhưng ngay cả
khi tất cả các bên đều cam kết xử lý chúng thì việc hòa giải sẽ có khả năng mất
nhiều năm trời. Trong hơn 15 năm qua từ khi Trung Quốc và các nước ASEAN ký kết
bản Tuyên bố không có tính ràng buộc về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông năm 2002
(gọi tắt là DOC, Declaration of Conduct) – đã không có tiến bộ đáng
kể nào trong bất kỳ vấn đề nào kể trên. Những vấn đề khó khăn thậm chí còn
không được bao hàm trong các cuộc đàm phán khung năm ngoái bởi vì chúng sẽ làm
cho các bên không thể đạt được cái hạn cuối cùng mà họ tự đặt ra vào giữa năm
nay. Để phá vỡ bế tắc và đạt được một thỏa thuận có hiệu lực trong một khung thời
gian hợp lý – chẳng hạn chỉ còn vài năm trước khi một sự sụp đổ đầy thảm họa của
ngành ngư nghiệp xảy ra ở Biển Đông – cần phải có một sự thay đổi mang tính cấp
tiến về lập trường và thiện chí thực hiện những sự nhân nhượng rộng lớn. Điều
này đặc biệt đúng với Trung Quốc và đòi hỏi mơ hồ nhưng có ảnh hưởng lớn của nước
này về chủ quyền lịch sử.
Không
may, rất khó chấp nhận ý tưởng rằng một thiện chí như vậy có thể tồn tại ở Bắc
Kinh cùng với sự gia tăng quân sự hóa và chiến thuật cưỡng ép như đã thấy suốt
năm 2017. Kết luận có vẻ lạc quan nhất là chính phủ Trung Quốc có hai luồng
quan điểm về Biển Đông – vừa mong muốn tán tỉnh lân bang bằng các nỗ lực ngoại
giao trong khi đồng thời tìm cách thống trị các nước láng giềng thông qua các
phương tiện quân sự và dân quân. Quan điểm có tính hoài nghi hơn cho rằng nỗ lực
ngoại giao hơn một năm rưỡi vừa qua chỉ là một chiến thuật trì hoãn để làm phân
tâm các nước đòi chủ quyền ở Đông Nam Á và làm chệch hướng sự phê phán từ bên
ngoài trong khi Bắc Kinh chuẩn bị cho một đợt leo thang quân sự kế tiếp.
SỰ
CẢN TRỞ ĐÁNG TIN CẬY
Ở
khắp các thủ đô châu Á và Washington, những người thực dụng sẽ chào đón một bước
đột phá ngoại giao bất ngờ, nhưng sẽ là một sai lầm nếu dựa vào thiện chí của
Trung Quốc giữa rất nhiều dấu hiệu tiêu cực. Cơ hội hoàn tất một bộ Quy tắc Ứng
xử có hiệu lực trong một thời gian ngắn đang mờ dần. Trong khi đó, có vẻ như chẳng
bao lâu nữa máy bay chiến đấu của Trung Quốc sẽ bắt đầu hoạt động đều đặn từ
các căn cứ không quân ở Trường Sa, phối hợp nhịp nhàng với sự hiện diện ngày
càng tăng của hải quân và dân quân để thực thi các đòi hỏi của Bắc Kinh mà các
nước láng giềng phải chịu thiệt hại.
Từ
năm 2016, Trung Quốc đã đều đặn gia tăng khả năng mở rộng sức mạnh trong toàn
khu vực đường lưỡi bò trong khi lập trường tương đối của các nước ASEAN có
tuyên bố chủ quyền và các quốc gia bên ngoài như Hoa Kỳ bị xói mòn dần. Ở
Manila, bộ trưởng quốc phòng và những cái đầu lạnh khác đã làm giảm nhẹ những lực
đẩy tệ hại nhất của những kẻ quyết tâm theo đuổi cuộc hòa hoãn với Trung Quốc bằng
bất cứ giá nào. Điều đó bao gồm cả việc cứu vãn mối quan hệ quốc phòng với Hoa
Kỳ, ít ra là một phần, để chuẩn bị cho cái ngày mà sự theo đuổi rất quyết đoán
của Trung Quốc cho các đòi hỏi của họ sẽ dẫn tới một đợt xung đột và căng thẳng
mới.
Về
phần mình, sự tập trung hạn hẹp của chính quyền của ông Trump vào cuộc khủng hoảng
đang diễn ra ở Bắc Hàn đã khiến họ còn rất ít thời gian và năng lực để xử lý cuộc
khủng hoảng tương lai ở Biển Đông. Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã hạ cấp vấn đề Biển
Đông xuống thành mối quan tâm thứ hai trong những cuộc giao kết ngoại giao với
các đối tác khu vực, và Nhà Trắng đã không có nỗ lực nào để định hình một chiến
lược của toàn chính phủ về cuộc xung đột này. Bộ quốc phòng Hoa Kỳ đã thực hiện
thường xuyên hơn các cuộc hành quân bảo vệ tự do hàng hải, nhưng chuyện đó có rất
ít hiệu quả trong việc cô lập hóa [Trung Quốc]. Quân đội Hoa Kỳ đã trở lại với
nhịp độ thông thường trong huấn luyện và tập trận chung với các lực lượng vũ
trang Philippines và tiếp tục cung cấp ngân sách cho hoạt động xây dựng năng lực.
Nhưng bản Thỏa thuận Hợp tác Quốc phòng Nâng cao (EDCA) ký kết năm 2014 cho
phép các lực lượng Hoa Kỳ quyền tiếp cận hạn chế tới các căn cứ của
Philippines, mới chỉ được triển khai thực hiện một phần và không thể kích hoạt
một phản ứng đáng tin cậy của Hoa Kỳ đối với những cuộc bố trí quân sự của
Trung Quốc ở Trường Sa.
Bằng
chứng hiện nay ám chỉ rằng Trung Quốc đang ở tư thế sẵn sàng cho những cuộc leo
thang mới ở Biển Đông; đây sẽ là hồi chuông cảnh tỉnh cho các chính phủ ở
Philippines và khắp nơi trong khu vực. Nó cũng sẽ đặt ra một thử thách, và cả một
cơ hội cho Hoa Kỳ; nhưng đến nay Washington vẫn làm quá ít để chuẩn bị, cả cho
đối đầu với thử thách lẫn nắm bắt cơ hội. Để ngăn chặn Trung Quốc sử dụng vũ lực,
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực như một biện pháp cưỡng bức chống lại Philippines,
Hoa Kỳ cần phải bố trí máy bay chiến đấu và các khí tài khác ở nước này. Điều
đó có nghĩa là đưa EDCA trở lại con đường của nó, thuyết phục chính phủ Duterte
tuân thủ đầy đủ những kế hoạch cho phép nâng cấp toàn bộ năm căn cứ đã thỏa thuận
trước đây, đảo ngược quyết định cấm tích trữ đạn dược ở các căn cứ đó và cho
phép thực hiện việc luân chuyển thường xuyên các máy bay chiến đấu của Hoa Kỳ tại
đó. Đây cũng là lúc mà chính phủ Hoa Kỳ phải công khai tuyên bố rằng Hoa Kỳ cam
kết bảo vệ binh lính, tàu thuyền, máy bay của Philippines khi bị tấn công, theo
Điều V của Hiệp ước Phòng thủ Hỗ tương, áp dụng trong các vùng nước tranh chấp
và các đảo ở Trường Sa. Sự làm rõ lập trường như vậy sẽ không chỉ tái bảo đảm với
chính phủ Duterte rằng Hoa Kỳ thật sự hỗ trợ Philippines khi cần thiết mà còn
là một hành động ngăn chặn mạnh mẽ đối với cuộc xâm lược của Trung Quốc.
Một
sự ngăn chặn đáng tin cậy của Hoa Kỳ ở Philippines kết hợp với những cuộc hành
quân thường xuyên của quân đội Hoa Kỳ trên Biển Đông và sự tài trợ bền vững cho
hoạt động xây dựng năng lực và phối hợp huấn luyện cho quân đội tất cả các nước
Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền là cần thiết để phòng ngừa sự thống trị của
Trung Quốc bằng biện pháp cưỡng bức trong thời gian ngắn hạn. Tuy nhiên, không
có giải pháp quân sự nào cho cuộc tranh chấp và mọi chiến lược dài hạn của Hoa
Kỳ cần được dẫn dắt bởi Nhà Trắng và bộ ngoại giao chứ không phải bộ quốc
phòng. Điều đó có nghĩa là cần có một nỗ lực liên bộ, kéo dài nhiều năm, nhằm hỗ
trợ các nước Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền, huy động sự ủng hộ quốc tế, vạch
mặt và lên án Trung Quốc. Nhưng trước tiên, Hoa Kỳ sẽ cần phải bảo đảm cho toàn
khu vực này rằng, Hoa Kỳ không quay lưng với tầm quan trọng của vấn đề, và sẽ
không ngoảnh mặt trong tương lai. Để khởi động, các quan chức Hoa Kỳ nên bắt đầu
dành cho Đông Nam Á sự quan tâm nhiều ngang với Bắc Hàn trong cuộc gắn kết ngoại
giao với các nước ASEAN và các đối tác khu vực khác. Trong các tuyên bố công
khai, quan chức Hoa Kỳ cần nói rõ rằng lợi ích của Hoa Kỳ trong cuộc tranh chấp
không chỉ giới hạn trong khả năng được “bay qua, đi tàu qua hoặc hoạt động”
trong các vùng nước này – tự nó, những hoạt động này có rất ít ý nghĩa với các
quốc gia trong vùng – mà, cũng quan trọng như vậy, lợi ích của Hoa Kỳ còn bao
hàm an ninh của các đối tác và đồng minh, cũng như bảo vệ một trật tự dựa trên
luật lệ để đối mặt với chủ nghĩa xét lại Trung Quốc.
------------
Gregory
Poling là giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á; nhà nghiên cứu của
Chương trình Đông Nam Á tại Trung tâm nghiên cứu Chính sách và Chiến lược
(CSIS) Hoa Kỳ.
Nguồn:
No comments:
Post a Comment