29/01/2018
Tờ
Tuổi Trẻ vừa đăng một bài viết của ông Nguyễn Minh Nhị, cựu Chủ tịch tỉnh An
Giang. Trong bài “Để người dân đừng đi Bình Dương, hãy làm như Đồng Tháp!”,
ông Nhị - một viên chức cao cấp, tuy đã nghỉ hưu song vẫn trăn trở về tương lai
An Giang nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long nói chung – kể rằng, trong vài
năm gần đây, “đi Bình Dương” trở thành chuyện cửa miệng của nhiều cư dân An
Giang.
Lúc
đầu, cư dân An Giang phấn chấn vì “đi Bình Dương” hứa hẹn cơ hội thoát nghèo,
thế nhưng sau đó, thực tế cho thấy, “đi Bình Dương” là loại cơ hội tưởng vậy mà
không phải vậy, nhiều người “đi Bình Dương”, khi có chuyện khẩn cấp, gia đình
phải gửi tiền để người “đi Bình Dương” có lộ phí cho chuyện quay về. Tuy nhiên
theo lời ông Nhị, cư dân An Giang vẫn lũ lượt bỏ nhà, bỏ ruộng, bỏ cha mẹ già,
mồ mả ông bà, vợ chồng con cái dắt díu nhau “đi Bình Dương”.
Ông
Nhị nhận định, dù cuộc sống của những người chọn con đường “đi Bình Dương” cực
nhọc, bấp bênh nhưng xét cho đến cùng thì vẫn tốt hơn ở lại quê nhà. Ông Nhị
cay đắng lập lại điều mà nhiều chuyên gia đã đề cập từ lâu, đó là dù luôn góp phần
đáng kể cho kinh tế Việt Nam nhưng đầu tư cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long
luôn ở mức thấp nhất. Giờ, khi không thể sống nhờ ruộng vườn, cư dân An Giang
nói riêng và cư dân đồng bằng sông Cửu Long lũ lượt bỏ xứ, tha phương cầu thực…
Hồi
trung tuần tháng này, tờ Tuổi Trẻ giới thiệu một nghiên cứu của Alex Chapman –
Đại học Southampton (Anh) và Văn Phạm Đăng Trí (Đại học Cần Thơ), theo đó, đồng
bằng sông Cửu Long có khoảng 18 triệu dân nhưng trong mười năm vừa qua đã có
khoảng 1,7 triệu người ở đó bỏ xứ ra đi. Alex và Trí dẫn một nghiên cứu khác
của Lê Thị Kim Oanh và Lê Minh Trường thuộc Đại học Văn Lang, cho biết, gần
đây, đã có 14,5% cư dân đồng bằng sông Cửu Long “di cư”. Lê Thị Kim Oanh và Lê
Minh Trường cho rằng, mỗi năm, “biến đổi khí hậu” (hạn hán, nước mặn xâm nhập
sâu vào sông hồ, kênh rạch, ruộng đồng, sạt lở trên diện rộng,…) đẩy khoảng
24.000 cư dân đồng bằng sông Cửu Long tha phương cầu thực. Alex Chapman và Văn
Phạm Đăng Trí nhấn mạnh, khát vọng thoát nghèo là nguyên nhân chính dẫn tới hiện
tượng ồ ạt bỏ xứ tha phương cầu thực, do mối liên hệ càng ngày càng phức tạp
giữa nghèo đói với biến đổi khí hậu, tỉ lệ 14,5% có thể là “chưa đủ”.
***
Theo một thống kê được công bố hồi cuối năm ngoái, trong năm năm từ 2010 đến 2015, Việt Nam đã chi 850 tỉ để thực hiện chương trình “xây dựng nông thôn mới”. Tính đến cuối năm 2016, tại Việt Nam có 2.016 xã (23% tổng số xã) đạt “tiêu chuẩn nông thôn mới”. Cũng theo thống kê vừa kể thì song song với con số 2.016 xã tại Việt Nam đạt “tiêu chuẩn nông thôn mới” là 53/63 tỉnh, thành phố đang nợ 15.277 tỉ đồng do “xây dựng nông thôn mới” và hệ thống công quyền từ trung ương đến địa phương chưa biết xoay tiền từ đâu ra để trả.
Tại
một cuộc họp của Quốc hội khóa 14 (2016 – 2021) diễn ra hồi cuối năm ngoái, ông
Nguyễn Ngọc Phương một đại biểu của tỉnh Quảng Bình bảo rằng, nhiều tiêu chí đã
được đề ra để xem xét – công nhận đạt “tiêu chuẩn nông thôn mới” không hợp lý
nên chương trình “xây dựng nông thôn mới” trở thành lãng phí vì không hiệu quả.
Ví dụ như tiêu chí về chợ, về bưu điện trung tâm. Nhiều chợ xây theo “tiêu
chuẩn nông thôn mới” đang bị bỏ hoang và vì đã hết tiền nên không thể xây dựng
các cơ sở thiết yếu như trường học, trạm y tế. Ở cuộc họp vừa kể, những đại
biểu khác nói thêm rằng để đạt thành tích thực hiện thành công chương trình
“xây dựng nông thôn mới”, chính quyền nhiều xã đã ép dân đóng góp quá mức, kể
cả ép các gia đình nghèo, người già, trẻ con.
Chưa
kể đóng góp của dân chúng, chỉ tính số mà công quỹ đã chi và những khoản nợ dứt
khoát phải trả, chương trình “xây dựng nông thôn mới” đã nuốt của công khố
16.127 tỉ. Dẫu di họa của chương trình “xây dựng nông thôn mới” (do Bộ Chính
trị của Đảng CSVN đề ra, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn, chính phủ Việt Nam thực
hiện) đã rất rõ ràng: Nông dân oán thán vì bị vắt kiệt. Nợ nần của hệ thống
công quyền tăng vọt. Chính quyền nhiều địa phương phá sản, không còn tiền để
chi cho các khoản thiết yếu. Nhiều doanh nghiệp phá sản vì cung cấp vật tư,
nguyên liệu, nhận thầu các công trình trong chương trình “xây dựng nông thôn
mới” nhưng không được thanh toán, song cuối năm 2015, trước khi mãn nhiệm kỳ
2011 – 2016, 436/437 đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 vẫn tán thành việc chi
193 ngàn tỉ đồng trong giai đoạn từ 2016 đến 2020 để… tiếp tục thực hiện chương
trình “xây dựng nông thôn mới”. Trong 193 ngàn tỉ đồng đó, chính quyền trung
ương sẽ chi 63.155 tỉ, chính quyền các địa phương sẽ chi 130.000 tỉ và tất nhiên
từ trẻ sơ sinh đến người già chưa kịp thở hơi cuối cùng trên toàn quốc sẽ cùng
nhau gánh vác khoản tiền khổng lồ này.
Nuốt
hết 16.127 tỉ, “nông thôn mới” đẩy 20% cư dân các tỉnh phía Bắc miền Trung, 20%
cư dân các tỉnh duyên hải miền Trung, 18,4% cư dân đồng bằng sông Củu Long tha
phương cầu thực. Trong hai thập niên vừa qua, khu vực đồng bằng sông Cửu Long
không những không tăng trưởng về dân số mà tỉ lệ này còn âm (-0,13%). Nếu nuốt
thêm 193.000 tỉ đồng nữa, “nông thôn mới” sẽ đẩy thêm bao nhiêu triệu nông dân
đến chỗ khốn cùng để phải chọn kiếp tha phương cầu thực?
***
Trong bài “Để người dân đừng đi Bình Dương, hãy làm như Đồng Tháp!”, ông Nhị đề nghị phải bắt đầu từ giáo dục để nông dân có kiến thức, kỹ năng cơ bản trong chuyện làm ruộng, làm vườn, để dân chúng tự do tổ chức tiêu thụ nông sản, để việc chuyển dịch lao động trong nông nghiệp diễn ra một cách tự nhiên. Ông Nhị dẫn Đồng Tháp như một ví dụ mà chính quyền các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nên tham khảo để cư dân đồng bằng sông Cửu Long thôi phải tính đến việc “đi Bình Dương”: Đào tạo nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thu hút giới đầu tư ngoại quốc vào các khu công nghiệp… Ông Nhị kể thêm về những nông dân thành đạt bởi được giáo dục tốt, có đủ kiến thức, kỹ năng làm chủ ruộng vườn và lưu ý chi tiết, tất cả đều được đào tạo “trước 1975”.
Chẳng
ai nghi ngờ thành tâm và thiện ý của ông Nhị nhưng sau 1975, tình hình trên
toàn Việt Nam đã khác. Với một hệ thống chiêu nạp, dung dưỡng các viên chức
luôn tìm đủ mọi cách biến tất cả những mục tiêu tốt đẹp thành cơ hội kiếm tiền,
bỏ túi riêng thì không thể hi vọng nông dân thôi dắt díu nhau “đi Bình Dương”.
Năm
2010, hệ thống công quyền Việt Nam bắt đầu “triển khai Chương trình Đào tạo
nghề cho lao động nông thôn”. Năm 2017, tại một hội nghị về việc thực hiện
chương trình này, các viên chức hữu trách thú nhận, những nông dân đã được “đào
tạo” không thể sống được với “nghề” mà hệ thống công quyền từ trung ương đến
địa phương dạy cho họ. Phó Chủ tịch tỉnh Hà Giang thú thật, năm 2016, “Chương
trình Đào tạo nghề cho lao động nông thôn” ngốn hết 3,7 tỉ nhưng nông dân Hà
Giang vẫn lũ lượt dắt díu nhau sang Trung Quốc làm thuê. Mỗi năm, Hà Giang có
20.000 người sang Trung Quốc tìm việc làm. Cũng ở hội nghị vừa kể, dù thừa
nhận, “Chương trình Đào tạo nghề cho lao động nông thôn” bị lạm dụng (có xã, có
tới 600 người học… thiến heo) nhưng hệ thống công quyền Việt Nam “nhất trí” sẽ chi 2.000 tỉ đồng nữa để “đào tạo nghề” cho 1,4
triệu nông dân từ 2016 đến 2020.
Tương
tự, năm ngoái, Việt Nam công bố một thống kê, theo đó, sau khi thi nhau thu hồi
ruộng, vườn của nông dân để xây dựng 324 khu công nghiệp, chỉ có 15% trong
số 92.000 héc ta đất dành cho các khu công nghiệp được sử dụng.
Chẳng
lẽ đã đến lúc, thay vì đặt một dấu hỏi sau “tương lai nông dân”, người ta phải
dùng dấu chấm than?
No comments:
Post a Comment