Nguyễn Hải Hoành
Posted on 21/09/2015 by The Observer
Lại một lần nữa cả
nước Mỹ kinh hoàng khi biết tin hai nhà báo Alison Parker (nữ, 24 tuổi) và Adam
Ward (27 tuổi), bị một kẻ nổ súng giết hại ngay tại một cuộc phỏng vấn được
truyền hình trực tiếp trong chương trình chào buổi sáng của đài WDBJ ngày
28/8/2015 vừa qua. Hung thủ Vester Flanagan, cũng là một nhà báo, từng làm việc
chung với các nạn nhân. Theo tin sơ bộ, Flanagan sát hại Parker và Ward là do
thù hằn cá nhân. Sau khi giết hai nạn nhân, Flanagan đã tự bắn súng vào mình.
Năm 2012 người Mỹ từng
hãi hùng khi nghe tin vụ thảm sát xảy ra tại rạp chiếu phim Century ở thị trấn
Aurora bang Colorado vào nửa đêm hôm 20/7 làm 12 người chết và 59 người bị
thương. Hung thủ John Holmes mang theo một súng trường AR15 và 3 súng ngắn đi
vào rạp rồi xả súng vào đám đông khán giả đang xem bộ phim Người Dơi. Holmes mới
24 tuổi, đã tốt nghiệp đại học; hắn giết người không vì thù hận ai mà chỉ vì
hoang tưởng mình là anh hề Joker, một nhân vật trong bộ phim này từng xả súng
vào khán giả xem phim.
Những vụ bắn giết bừa
bãi vô cớ như vậy thường xuyên xảy ra ở nước Mỹ. Năm 2007 tại trường Đại học
Công nghệ Virginia, một sinh viên dùng súng bắn chết 32 người rồi tự tử.
Thường thấy báo
đăng những chuyện bi thảm đại loại thế này: vợ chồng nhà nọ đang to tiếng cãi
nhau về chuyện có ly dị hay không thì bỗng một tiếng nổ vang lên ở phòng bên;
hai người chạy sang thì thấy cậu con trai đã tự tử bằng súng của ông bố.
Tai họa súng ở Mỹ từng
gây rắc rối quan hệ quốc tế. Tại Baton Rouge thuộc bang Louisiana ngày
17/10/1992 xảy ra vụ thảm sát Yoshihiro Hattori, một thiếu niên Nhật 16 tuổi
sang Mỹ theo chương trình trao đổi học sinh. Đêm ấy Hattori cùng cậu bạn người
Mỹ hóa trang làm quỷ sứ đi dự dạ hội; họ gọi nhầm cửa một gia đình không quen
biết, bà chủ nhà khi mở cửa sợ quá hét lên, ông chồng chạy ra nổ súng giết chết
Hattori. Cả nước Nhật kinh hoàng không hiểu ra sao. Sau đó chương trình trao đổi
học sinh giữa hai nước bị trục trặc một thời gian.
Sáu trong số 44 Tổng
thống Mỹ là nạn nhân của các vụ ám sát bằng súng. Nhưng kinh khủng nhất là những
vụ xả súng bừa bãi vô cớ giết người hàng loạt như mấy vụ kể trên.
Nước Mỹ đứng đầu thế
giới về tai họa do súng gây ra: trung bình hàng năm có khoảng 100.000 người
thương vong bởi súng, trong đó chết chừng 30.000 (thí dụ năm 1997 có
32.436 người chết). Tổng số người Mỹ chết vì tai nạn súng trong nước nhiều hơn
tổng số lính Mỹ chết trong tất cả các cuộc chiến tranh ở ngoài nước. Tự tử bằng
súng là một vấn nạn lớn. Tổng thống Obama thừa nhận cứ 36 giờ thì có 12 người Mỹ
trẻ chết vì tội phạm bạo lực.
Những tai họa thảm
thương nói trên không thể không liên quan tới việc từ xưa tới nay tất
cả các đời chính phủ Mỹ đều cho phép dân chúng được quyền sở hữu và mang súng
theo người.
Trên thế giới không
nước nào dân chúng sở hữu súng với mức độ cao như nước Mỹ. 314 triệu dân Mỹ hiện
nay làm chủ hơn 270 triệu súng các loại; bình quân mỗi người lớn có hơn 1 khẩu
súng. Tỷ lệ này vượt xa Yemen, một nước do các bộ lạc họp thành chứ chưa phải
là quốc gia có bộ máy hành chính tổ chức hiện đại như nước Mỹ.
Dư luận quốc tế
ngày càng mạnh mẽ ủng hộ việc cấm súng ở Mỹ. Sau cái chết của Hattori, 1 triệu
người Mỹ và 1,65 triệu người Nhật cùng ký vào đơn thỉnh nguyện đòi cấm súng gửi
tới Tổng thống Clinton.
Nhưng phần lớn người
Mỹ lại nghĩ khác. Họ lên án các vụ bắn giết nhưng sau đó tình hình kiểm soát
súng vẫn thế, chẳng có gì thay đổi, mặc dù lâu nay họ bàn cãi nhiều về vấn đề
này. Có điều họ chủ yếu bàn cãi chuyện quản lý súng đạn như thế nào chứ không đụng
tới chuyện cấm súng. Một điều tra của Viện Gallup cho thấy số người Mỹ phản đối
cấm súng tăng lên theo thời gian: năm 1990 là 20%, năm 2010 là 54%. Đây thật là
điều khó hiểu đối với người dân các nước khác: chả lẽ người Mỹ chưa “ớn” nạn tự
do sở hữu súng, chả lẽ họ không muốn bảo vệ tính mạng mình và con cháu mình ư?
Khi tuyên bố về vụ
thảm sát hôm 20/7/2012, hai ứng viên Tổng thống hồi đó là Obama và Romney cũng
không nói gì tới việc phải sửa đổi luật kiểm soát súng cho chặt chẽ hơn. “Quan
điểm của Tổng thống là chúng ta có thể tiến hành các biện pháp nhất định để
cách ly súng đạn khỏi tay những kẻ không nên có súng dưới các điều luật hiện
hành” — người Phát ngôn Nhà Trắng Jay Carney chỉ nói thế khi Obama tới Colorado
để tưởng niệm các nạn nhân. Nhưng Obama không nói rõ đó là những biện pháp nào.
Romey nói ông tôn trọng quyền người dân mang theo vũ khí.
Tờ Washington
Post viết: “Chúng tôi không kỳ vọng vụ thảm sát sẽ dẫn tới sự xiết chặt
luật lệ. Chúng tôi hiểu bầu không khí chính trị hiện nay”, và kết luận: “Luật
súng của Mỹ hiện thật khó chấp nhận”. Bầu không khí tờ báo muốn nói là nếu bây
giờ ứng viên Tổng thống nào đề nghị cấm súng thì chẳng khác gì tự sát về chính
trị. Trong vụ xả súng tại bang Arizona năm ngoái, nghị sĩ Gabby Giffords của
bang này bị thương nặng nhưng chính quyền Arizona đâu có vì thế mà tăng cường
kiểm soát súng.
Rõ ràng nước Mỹ
không cấm được súng. Đây là một bi kịch của nền dân chủ Mỹ. Vì sao vậy? Để trả
lời câu hỏi ấy, cần xem xét các yếu tố lịch sử và văn hóa của nước này.
Lịch sử nước Mỹ gắn liền với súng đạn
Những tốp người
châu Âu đầu tiên vượt biển tới đây khai phá đất hoang đều phải dùng súng để tự
vệ, chống thú dữ, đánh đuổi người bản xứ để chiếm đất, xây dựng nên các vùng đất
thuộc địa dưới sự thống trị của thực dân Anh. Luật pháp một số nơi yêu cầu người
khẩn hoang phải có vũ khí để cùng mọi người chiến đấu với kẻ địch. Toàn bộ đàn
ông các thuộc địa này đều tự vũ trang thành các đội dân quân. Khi nhà cầm quyền
thực dân Anh đòi dân quân Mỹ nộp súng, thì họ không nộp, hơn nữa dân Mỹ ở 13
thuộc địa tuyên bố thành lập một quốc gia độc lập với Anh Quốc. Tiếp đó họ tiến
hành cuộc chiến tranh Độc lập 1775-1781 chống lại thực dân Anh và giành thắng lợi.
Trong cuộc Nội chiến
tàn khốc 1861-1865 giữa hai miền Nam Bắc, rồi cuộc Tây tiến tranh cướp đất và
vàng, mọi mâu thuẫn đều giải quyết bằng súng đạn. Tiếp đó nước Mỹ mạnh dần lên
và dùng vũ lực chiếm đất xung quanh, mở rộng lãnh thổ. Như cuộc chiến tranh
1846-1848 buộc Mexico phải nhượng cho Mỹ các vùng đất Texas, California v.v…hoặc
cuộc chiến tranh năm 1898 buộc Tây Ban Nha phải nhượng cho Mỹ các lãnh thổ
Philippines, Puerto Rico và Guam. 100 năm sau ngày độc lập (1776), diện tích nước
Mỹ mở rộng gần 10 lần, đều là kết quả của “ngoại giao súng ống”. Nước này cũng
sản xuất nhiều súng đạn nhất thế giới.
Trong cuốn Nước
Mỹ vũ trang: Câu chuyện đáng nhớ về việc Vì sao và như thế nào súng
trở thành cái bánh Táo của người Mỹ (Armed America: The Remarkable
Story of How and Why Guns Became as American as Apple Pie),[1] Clayton Cramer viết: “Súng là cốt
lõi của phần lớn lịch sử nước Mỹ, cũng là tiêu điểm của phần lớn các câu chuyện
huyền thoại và khủng bố.”
Hiến pháp Mỹ thông
qua năm 1789 chỉ có 7 điều nhưng lại có tới 27 tu chính án; trong đó 10 tu
chính án đầu tiên gọi là Tuyên ngôn Nhân quyền (Bill of
Rights). Tu chính án số 2 có tiêu đề Quyền giữ và mang vũ khí, được
thông qua ngày 15/12/1791 bảo đảm các công dân Mỹ có quyền sở hữu và mang súng.
Về sau chính quyền hơn một nửa số bang ở Mỹ tán thành Học thuyết Castle,
tức học thuyết chủ trương cho phép cá nhân được tự vệ chính đáng kể cả sát
thương thay vì rút lui khi bị tấn công, và thể hiện nó bằng luật Stand
your Ground (Đứng nguyên tại chỗ), tức luật cho phép nổ súng khi bị đe
dọa.
Trên vấn đề ủng hộ
hay phản đối kiểm soát súng, người Mỹ đang có sự chia rẽ rõ ràng Trong thực tế
số người muốn cấm súng là thiểu số, mà ở nước Mỹ hầu như cái gì cũng
quyết định theo đa số.
Những người phản đối
cấm súng nói: thông thường cảnh sát chỉ đến hiện trường sau khi đã xảy ra hành
động phạm tội, vì thế mang theo súng là cách tự vệ tốt nhất của người dân khi đối
mặt với hung thủ. Nếu tước quyền mang súng của những công dân tôn trọng pháp luật
thì sẽ không thể ngăn chặn được tội ác. Một số bang thi hành lệnh cấm súng đã
làm cho mức độ phạm tội tăng lên.
Tuy vậy vẫn có
không ít người Mỹ đòi hỏi phải kiểm soát súng thật chặt chẽ, sao cho súng không
lọt vào tay những kẻ xấu, người tâm thần. Đảng Dân chủ ủng hộ quan điểm tiến bộ
này. Nhưng phe bảo thủ gồm Hiệp hội Súng trường Quốc gia (National Rifle
Association – NRA) và đảng Cộng hòa phản đối việc cấm súng. Hai bên tranh cãi
không dứt về hàm nghĩa không rõ ràng của Tu chính án số II.
Tu chính án này có
hai vế: vế đầu nói Dân quân được quản lý tốt là cần thiết cho an ninh của
bang tự do; vế sau nói không được xâm phạm quyền mọi người giữ và
mang vũ khí (A well regulated Militia being necessary to the security
of a free State, the right of the people to keep and bear Arms shall not be
infringed).
Có hai cách giải
thích khác nhau về nội dung đó.
Phái tiến bộ giải
thích hai vế này có quan hệ nhân quả: vế đầu là tiền đề của vế sau, chỉ ai tham
gia dân quân mới được có vũ khí, tức quyền sở hữu súng là sở hữu tập thể, Hiến
pháp không quy định người nào cũng được có súng. Nói cách khác là nên cấm súng.
Phái bảo thủ giải
thích hai vế đó không có quan hệ nhân quả mà là quan hệ ngang hàng; vế sau mới
là quan trọng nhất; Hiến pháp Mỹ chưa hề nói không được vi phạm quyền người
tham gia dân quân giữ và mang vũ khí. Phái này lập luận: Cấm súng không giải
quyết được vấn đề; Na Uy cấm súng thế nhưng vẫn xảy ra vụ hôm 22/7/2011 khi kẻ
cực hữu Anders Behring Breivik nổ bom và xả súng giết chết 77 người đấy thôi.
Sau nhiều năm né
tránh cuộc tranh cãi này, tháng 11/2007, Tòa Tối cao Mỹ đồng ý thụ lý vụ chính
quyền đặc khu Washington D.C. bị kiện vì đã ra lệnh cấm súng lục. Đây là lần đầu
tiên trong 70 năm Tòa án Tối cao thụ lý vụ việc liên quan đến súng, cũng là lần
đầu tiên Tòa ra phán quyết rõ ràng về quyền có súng của người dân.
Tòa có 9 thẩm phán
thì 5 vị nói sở hữu súng là quyền của cá nhân; giữ súng là để tự vệ, để săn bắn,
để hoạt động thể thao; dĩ nhiên cũng có liên quan tới việc tham gia dân quân.
Bốn vị có tư tưởng
tự do thì nói không nên xét theo câu chữ mà nên xem xét ý định của các nhà lập
pháp nêu ra cách đây hơn 200 năm: hồi ấy Quốc hội đưa Tu chính án số II vào Hiến
pháp là do Quốc hội e ngại chính phủ Liên bang có thể vi phạm quyền lực của các
bang; để tự bảo vệ thì mỗi bang phải tự xây dựng lực lượng dân quân (tên chính
thức là Đội Cảnh vệ Quốc dân); vì thế quyền sở hữu súng nói ở đây là quyền tập
thể chứ không phải quyền cá nhân.
Ngày 26/7/2008, Tòa
án Tối cao ra phán quyết trên cơ sở biểu quyết của 9 thẩm phán. Kết quả phái bảo
thủ thắng phái tự do với tỷ số 5:4 — nghĩa là Tòa không cấm quyền cá
nhân sở hữu súng. Tòa án Tối cao đã phán như thế thì chẳng ai dám nói cấm
súng nữa, kể cả Tổng thống.
Nhìn chung các Tổng
thống Dân chủ đều cố gắng tìm cách đưa ra luật lệ để tránh súng lọt vào tay kẻ
tội phạm hoặc tâm thần.
Ngày 13/9/1994, Tổng
thống Clinton ký lệnh cấm súng tấn công (là loại có thể sát thương nhiều người
cùng một lúc), nhằm mục đích giảm thương vong do các tai nạn súng, quy định việc
buôn bán 19 loại súng tấn công quân dụng và hộp đạn trên 10 viên là bất hợp
pháp. Nhưng lệnh có kèm một điều là chỉ có thời hạn 10 năm, sau đó nếu Quốc hội
không ủy quyền kéo dài thời hạn thì lệnh cấm này tự động hết hiệu lực. Năm 2004
(thời Tổng thống Bush con), dưới sức ép của NRA, Quốc hội Mỹ không tuyên bố kéo
dài thời hạn thi hành lệnh trên, như vậy nghĩa là lệnh cấm đó thất bại. Hậu quả
là những loại súng như AK-47, súng lục TEC-9 là những vũ khí tấn công vốn chỉ cảnh
sát mới được dùng, nay cũng được bán cho dân.
Nhiều người Mỹ tự hào với quyền tự do sở hữu
súng được Hiến pháp bảo đảm
Họ thấy việc công
dân có súng là chuyện rất bình thường. Hầu như không ai để ý tới một sự thật là
trong số họ có những kẻ điên rồ ngu xuẩn hoặc tâm thần có thể dùng súng để giết
mình hoặc đồng loại. Chính quyền một nửa số bang cho phép dân được mang súng tại
các nơi công cộng, cho phép được bắn người khi tính mạng mình bị đe dọa.
Người nước ngoài đến
Mỹ đều vô cùng ngạc nhiên khi thấy súng đạn được bày bán khắp nơi như một mặt
hàng bình thường. Luật pháp Mỹ quản lý súng lỏng lẻo “không bằng quản lý đồ
chơi của trẻ em”. Người mua chỉ cần có đủ các điều kiện về tuổi quy định, không
có tiền sử phạm tội hoặc bệnh tâm thần và được cảnh sát cho phép thì có thể được
mua súng và cấp Giấy phép sở hữu súng. Người mua chỉ cần tự khai vào một biểu mẫu.
Người bán gửi bản khai đó cho cảnh sát; sau khi đối chiếu với hệ thống hồ sơ
lưu trữ toàn quốc về nhân thân của công dân Mỹ, cảnh sát sẽ trả lời có cho phép
mua súng hay không (mọi liên lạc đều qua mạng); nếu thấy có vấn đề, cảnh sát lập
tức đưa người đó về đồn thẩm tra. Nơi bán súng thường có bãi thử súng. Ai chưa
biết cách dùng súng thì không được mua súng. Người mua súng phải qua sát hạch
tương tự khi lấy bằng lái xe: sát hạch lý thuyết rồi sát hạch thực tế khả năng
dùng súng. Có giấy phép rồi hàng năm phải trình xét.
Quản lý súng không
nghiêm như vậy là kết quả các cuộc vận động lobby của NRA, vốn là một tổ
chức ôn hòa do những thợ săn và người thích súng lập ra năm 1871, theo kiểu một
tổ chức tương tự của người Anh.
Có tới 8
Tổng thống Mỹ từng là thành viên NRA: Ulysses S. Grant, Theodore
Roosevelt, William Howard Taft, Dwight D. Eisenhower, Richard M. Nixon, Ronald
Reagan và George H.W. Bush. Ông Bush con được coi là Tổng thống thân thiện nhất
với súng, nhưng tháng 5/1995 ông đã xin rút ra khỏi NRA.
Thời xưa, khi việc
dân có súng chưa gây ra lắm rắc rối thì NRA chủ yếu mở các khóa huấn luyện cách
sử dụng súng an toàn, kỹ thuật bắn súng và săn bắn. Từ thập niên 1960 trở đi,
khi nhiều người Mỹ đòi kiểm soát súng thì NRA đã từ vai trò câu lạc bộ những
người yêu súng trở thành đoàn thể chính trị phản đối việc cấm súng.
Ngày nay NRA có 4,3
triệu hội viên và là đoàn thể có thế lực nhất nước. Họ đã chi 10 triệu USD cho
cuộc tranh cử Tổng thống năm 2008. Tờ Washington Post cho biết
trong lần bầu cử Quốc hội gần đây, 4/5 ứng viên do NRA ủng hộ đều trúng cử. Vì
thế các chính khách rất ngại chống lại NRA. Năm ngoái, khi từ chối thảo luận với
Tổng thống Obama về vấn đề kiểm soát súng, Phó Chủ tịch NRA là Wayne LaPierre
nói: “Vì cớ gì mà tôi hoặc NRA lại có thể ngồi cùng với nhóm người bỏ cả đời họ
để tìm cách hủy diệt Tu chính án số II của Hiến pháp Mỹ nhỉ?”
Sau vụ xả súng ở
Colorado, Steve Schmidt, một chiến lược gia của đảng Cộng hòa, nói tại chương
trình Meet the Press của công ty NBC rằng “Mọi người sẽ không
phản đối NRA đâu. Đó là nhóm lợi ích có quyền thế nhất ở Washington.” Cũng tại
chương trình ấy, bà Carolyn McCarthy, nghị sĩ đảng Dân chủ, nói: “Rất nhiều
chính khách hiểu rằng đấu tranh cứu tính mạng người dân là đúng. Nhưng bây giờ
họ đã không còn thẳng lưng nữa. Ai cho họ tiền thì họ theo người ấy”; chống lại
NRA sẽ cứu được tính mạng của người Mỹ. Nghị sĩ Cộng hòa Louie Gohmert lập luận:
Nếu khán giả trong rạp chiếu bóng Century đêm 20/7 ấy có mang súng và bắn lại
hung thủ thì có lẽ số thương vong sẽ bớt đi. Nhưng một cựu Cảnh sát trưởng lại
phát biểu rằng James Holmes toàn thân trang bị chống đạn, rất khó có thể bắn hạ
được hắn.
Có điều kỳ quặc là
sau thảm họa ấy, số người mua súng ở bang Colorado lập tức tăng vọt; những người
mua nói bây giờ họ thấy cần có súng để tự vệ.
Tác động của văn hóa bạo lực
Sẽ là thiếu sót nếu
nói nước Mỹ không thể cấm súng chỉ là do Hiến pháp Mỹ có Tu chính án số II và
do NRA tích cực hoạt động chống cấm súng.
Ai cũng biết người
Mỹ từ xưa đã ưa phiêu lưu mạo hiểm, chuộng những mẫu người dũng cảm, tài trí vượt
trội, trong đó có tài bắn giết. Các siêu nhân như vậy trở thành mẫu người lý tưởng
của giới trẻ. Bộ máy văn hóa khổng lồ của nước Mỹ, từ giới nhà văn cho tới giới
điện ảnh, truyền thông hầu như tất cả đều cổ súy cho “típ” người như thế. Trước
những vụ thảm sát hàng loạt xảy ra tại Mỹ, dư luận không thể không đặt câu hỏi
liệu đây có phải là cái giá phải trả cho vô vàn tiểu thuyết, bộ phim và trò
chơi máy tính đầy rẫy cảnh bạo lực hay không. Đúng là người Mỹ thích các tác phẩm
văn hóa như vậy nhưng không thể nói là họ thích hành động bạo lực. Thực ra hầu
hết họ yêu người yêu vật, yêu cộng đồng, yêu nước, yêu công bằng chính nghĩa.
Các phim và trò chơi đều có kết thúc rất nhân văn; những cảnh bạo lực hầu như
chỉ để thu hút khán giả, để làm cho họ khoái trá trước tài tưởng tượng và dàn dựng
của tác giả.
Nhưng không thể phủ
nhận một sự thực là không ít thanh thiếu niên có tâm lý không vững vàng đã chịu
ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn hóa bạo lực ấy. Đa phần hung thủ trong các vụ thảm
sát đều là thanh thiếu niên mê xem phim hoặc chơi game bạo lực. John Holmes nói
với cảnh sát rằng hắn là Joker, kẻ thù của Người Dơi Batman; Joker từng xông
vào rạp hát, ném lựu đạn hơi cay, giết sạch người xem phim; bây giờ Holmes cũng
làm hệt như vậy. Nhân thân của Holmes không có gì đáng ngờ: tốt nghiệp đại học
khoa Thần kinh học, không có tiền sử phạm tội và không có liên hệ với các nhóm
khủng bố. Nhưng hắn mê chơi game bạo lực và có lẽ do chịu ảnh hưởng của phim
Người Dơi đầy cảnh bạo lực, hắn đã mắc bệnh hoang tưởng, muốn trở thành nhân vật
Joker.
Văn hóa chính trị Mỹ: quyền lợi cá nhân lấn
át trách nhiệm xã hội
Xu thế này tồn tại
đã lâu trong đời sống người Mỹ, nhưng từ các biến đổi xã hội hồi thập niên 1960
trở đi lại càng mạnh lên, nó xóa nhòa sự bất đồng giữa hai phái tả và hữu. Trào
lưu xã hội cổ súy công chúng ủng hộ hôn nhân đồng giới và hợp pháp hóa sử dụng
ma túy cũng khuyến khích họ hiểu Tu chính án số II của Hiến pháp Mỹ theo một
nghĩa rộng hơn — ủng hộ tự do cá nhân. Dân Mỹ ưa tự do dân chủ vốn có
xu hướng không tin vào kẻ cai trị, tức chính quyền; họ luôn cho rằng từng
cá nhân phải tự quyết định số phận mình là chính, chớ nên trông mong vào chính
quyền, kể cả việc bảo vệ mạng sống của mình và gia đình.
Điểm chung của tất
cả các vấn đề nói trên là chủ nghĩa cá nhân ở nước Mỹ vốn đã rất mạnh, nay lại
ngày càng mạnh lên. Trong mọi cuộc tranh luận, quan điểm đề cao quyền lợi cá
nhân đều lấn át các quan điểm đạo đức và chính trị. Những người chủ trương bảo
lưu quyền sở hữu súng cổ súy cho quyền lợi của “các công dân tôn trọng pháp luật”.
Điều đó chẳng khác gì đề xướng quyền tự do của “những người lớn tự giác tự nguyện”
trong phong trào ủng hộ quyền của những người luyến ái đồng giới. Tổng thống
Obama cũng ủng hộ quyền ấy.
Vụ đối đầu giữa Cục
Quản lý đất đai Mỹ (U.S Bureau of Land Management, BLM) với chủ nông trại
Cliven Bundy 67 tuổi ở Đông Nam Nevada là một thí dụ có thể giải thích vì sao
dân Mỹ muốn sở hữu súng.
Năm 1993, vì để phản
đối sự thay đổi Quy tắc chăn thả gia súc nhằm tăng thuế đánh vào gia súc ăn cỏ
trên đất công, Bundy đã ngừng đóng thuế cho đàn bò của ông ăn cỏ trên một mảnh
đất do BLM quản lý, với lý do tổ tiên mình đã làm chủ vùng đất này từ thế kỷ
19, trước khi có Luật Chăn thả gia súc Taylor năm 1934 (Taylor Grazing Act of
1934). Theo Luật này thì gia súc ăn cỏ trên đất công phải nộp thuế.
Đầu năm 2014, Tòa
án ra lệnh Bundy phải nộp hơn 1 triệu USD tiền nợ thuế trong 20 năm. Bundy
phản đối và huy động rất nhiều nông dân từ khắp nơi, kể cả bang gần đấy (gọi là
dân quân) mang theo
súng ống đến vây toán cảnh sát được cử tới để cưỡng chế bắt giữ đàn bò
hơn 400 con của ông đang thả rông ở đây. Tháng 4/2014, Chính phủ Obama đã chủ động
kết thúc vụ đối đầu này bằng sự nhượng bộ của nhà nước, nhằm tránh đổ máu. Vả lại
chi phí cho vụ cưỡng chế này lên tới 2-5 triệu USD, quá tốn kém so với tiền thuế
có thể thu được.
Sau vụ này,
dân Mỹ càng tự hào về giá trị của việc họ được phép sở hữu súng.
Tóm lại, văn hóa bạo
lực, văn hóa súng và văn hóa chủ nghĩa cá nhân đã trở thành các bộ phận trong nền
văn hóa đa nguyên ở nước này. Như mọi người đều biết, cái gì đã trở thành văn
hóa thì rất bền vững, khó thay đổi.
Từ các trình bày ở
trên có thể thấy còn lâu nước Mỹ mới cấm được súng hoặc kiểm soát súng một cách
nghiêm ngặt hơn. Đây là bi kịch của nền chính trị và văn hóa Mỹ./.
Xem thêm:
——————
No comments:
Post a Comment