Triều Giang
October 20, 2017
Trong hai Tháng Tám và Tháng Chín vừa qua, cộng đồng
người Việt khắp nơi, đặc biệt là tại Hoa Kỳ, dư luận sôi nổi vì phim The
Vietnam War do truyền hình PBS sản xuất, đồng đạo diễn bởi hai nhà làm phim tài
liệu nổi tiếng vào bậc nhất tại Hoa Kỳ hiện tại, ông Ken Burns và bà Lynn
Novick.
Hầu hết mọi người Mỹ Gốc Việt sau khi xem phim The
Vietnam War không khỏi buồn phiền, tức giận vì sự sai, sót, thiên vị và chủ
đích nhằm rửa mặt cho sự hèn nhát và sai lầm của phe phản chiến được cổ xúy và
hỗ trợ nhiệt tình của Hệ Thống Truyền Hình PBS, một hệ thống truyền thông đã
đóng vai trò quan trọng trong việc thất thủ của miền Nam, Việt Nam. Là một
trong những vai chính trong cuộc chiến tranh nhưng phim The Vietnam War chỉ
dành cho Việt Nam Cộng Hòa một chỗ đứng mờ nhạt của một vai phụ để rồi họ đã
không được nói lên tiếng nói của mình; vì sao họ phải chiến đấu trong cuộc chiến
tranh khốc liệt máu lửa trên 20 năm, vì sao họ phải buông súng, và những gì đã
xảy ra cho họ và gia đình họ trong suốt cuộc chiến tranh, nhất là sau khi cuộc
chiến chấm dứt?
Để phản bác lại, đã có nhiều bài viết được đăng trên
các báo giấy, báo điện tử, trên Internet, và nhiều ý kiến được nêu lên tại các
buổi thảo luận do PBS tổ chức tại nhiều thành phố trên khắp nước Mỹ trước và
sau khi phim The Vietnam War được chính thức chiếu vào trung tuần Tháng Chín vừa
qua. Những ý kiến phản bác bằng cả hai thứ tiếng Việt và Anh đã được người Nam
Việt Nam và cả cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt Nam, từng phải hy
sinh rất nhiều trong cuộc chiến qua những bài tranh luận sâu sắc và giá trị, với
những chứng cứ rõ ràng từ kinh nghiệm sống, từ tài liệu đã được giải mật của
thư khố quốc gia, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, và từ những thư khố của các đơn vi quân
đội của Hoa Kỳ để vạch rõ những sai sót, một chiều của cuốn phim dài 18 tiếng,
tốn kém đến $30 triệu, 10 năm làm việc của hằng trăm người và một chương trình
quảng bá sâu rộng, ồn ào vào bậc nhất của hệ thống truyền hình PBS trong những
tháng ngày qua.
Thế nhưng, những cuộc tranh luận dù sôi nổi đến đâu
cũng sẽ có ngày lắng xuống và dần quên đi theo năm tháng. Cái còn lại là cuốn
phim đồ sộ này vẫn sẽ còn đó, mãi mãi để cùng với những cuốn phim tài liệu đồ sộ
về sự tốn kém cũng như chiều dài của nó như phim Vietnam Ten Thousand Day
War gồm 26 phân đoạn, dài 13 tiếng do nhà báo phản chiến gốc Canada,
Michael Maclear đạo diễn và nhà báo Peter Arnett viết truyện phim (1980), hay
phim Vietnam, A History Television dài 13 tiếng gồm 13 phân đoạn do hệ
thống PBS WGBH-TV in Boston sản xuất, với bốn đạo diễn: Judith Vecchione,
Austin Hoyt, Martin Smith, Bruce Palling và tám người viết truyện phim: Martin
Smith, Elizabeth Deane, Richard Ellison, Marilyn Mellowes, Bruce Palling, Judith
Vecchione và Austin Hoyt (1983). Năm 1997 phim này được cắt xén cón lại 11 giờ
với 11 phân đoạn được cho chiếu lại trên hệ thống PBS và được liệt kê vào danh
mục phim nói về kinh nghiệm của người Mỹ (American Experiences), Cuốn phim này
được quảng bá là cuốn phim tài liệu thành công nhất của PBS với ước lượng 9% tổng
số các nóc gia xem với số lượng 9.7 triệu người. Cả hai phim kể trên làm nền tảng
cho cuốn sách “Vietnam, A History” của Stanley Karnow trở thành sách bán
chạy nhất trong năm 2004.
Những văn hóa phẩm phim ảnh, sách báo kể trên đều có
liên quan đến hệ thống truyền hình PBS mà quan điểm chống chiến tranh Việt Nam
từ hơn nửa thế kỷ qua đã không hề thay đổi; quan điểm cho rằng Hoa Kỳ đã sai lầm
trong việc “xâm lăng” (invade) Việt Nam, thay thế Pháp để phải tốn kém hàng nhiều
trăm tỷ đô la và nhất là tổn thất trên 58,000 sinh mạng của người Mỹ để ủng hộ
cho phe ác (wrong side – ý chỉ miền Nam Việt Nam). Lý do Mỹ và miền Nam thua là
vì Quân đội Nam Việt Nam hèn nhát, không chịu chiến đấu, chính phủ Nam Việt Nam
thối nát, lính Mỹ vào Việt Nam thì hiếp phụ nữ, giết trẻ con… Luận điệu này được
đóng góp thêm bởi hàng trăm những cuốn sách được viết bởi những tác giả phản
chiến, xin đơn cử một vài tác giả như Frances Fitzgerald (Fire In The
Lake, 1972), Neil Sheehan ( A Bright Shining Lie, 1988), Marylyn B.
Young (The Vietnam War, 1945-1990), Gerald Nicosia (Home To War,
2004)… Đặc biệt luận điệu này còn được phụ họa bởi một số chính trị gia còn có
những ảnh hưởng trong chính trường đương đại như cựu bộ trưởng Ngoại Giao John
Kerry, Bob Kerry, Henry Kissinger…
Tất nhiên, không phải các tác giả nào cũng thuộc phe
phản chiến, một số cuốn sách có giá trị phản ánh sự thật viết bởi các tác giả nổi
tiếng, với công tâm và nghiên cứu kỹ lưỡng như Giáo Sư Tiến Sĩ Lewis Sorley (A Better War, 1999),
Giáo Sư Tiến Sĩ Robert F.
Turner (Vietnamese Communism, Its Origin and Development, 1975), James
E. Parker Jr. (Last Man Out, 2000 & Vietnam War and Its Ownself, 2015), và
một số tác giả gốc Việt viết sách bằng tiếng Anh như Cựu Đại Sứ Bùi Diễm (In the Jaws of History, 1999),
Trương Như Tảng (A Viet Cong Memoir, 1986),
Yung Krall (A Thousand Tears Falling,
2011), Lan Cao (The Lotus and The Storm, 2015)…
nhưng con số này còn tương đối ít ỏi. Riêng về phim tài liệu bằng tiếng Anh thì
ngoài cuốn phim VIETNAMERICA
(2015) của Hội Bảo Tồn Lịch Sử và Văn Hóa Người Mỹ Gốc Việt (VAHF) và
phim tài liệu có diễn xuất Ride
The Thunder (2015) do Koster Films, LLC sản xuất, chúng ta cũng có phim Journey To The Fall của đạo
diễn Trần Hàm, nhưng phim được làm theo thể loại phim truyện, dù là làm dựa
theo truyện thật nhưng vẫn được xem như có hư cấu nên việc dùng vào sách giáo
khoa sẽ gặp nhiều khó khăn. Còn lại thì hầu như không có cuốn nào khác có tầm cỡ
được chiếu tại các rạp.
Nhìn
vào cuộc diện trên, chúng ta tự đặt câu hỏi: liệu chúng ta có thể làm gì để có
thể thay đổi? Để trả lại sự thật cho lịch sử? Để nói lên chính nghĩa của miền
Nam Việt Nam và nhất là nói lên lời công đạo cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa và
hơn 2 triệu người lính Mỹ đã tham chiến, hy sinh để bảo vệ tự do cho miền Nam
Việt Nam? Để cho nhiều triệu người phải bỏ mạng trong cuộc chiến tranh khỏi phải
chết vô nghĩa, và nhất là để con cháu chúng ta khỏi phải cúi mặt tủi hổ mỗi khi
học về lịch sử chiến tranh Việt Nam?
Cộng đồng người Việt hải ngoại và nhất là tại Hoa Kỳ
đã sống trong thế giới tự do này tuy chưa lâu như một số cộng đồng khác, nhưng
cũng đủ dài để chúng ta hiểu được rằng chúng ta có thể làm bất kỳ chuyện gì mà
chúng ta muốn, trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Vì thế, việc viết sách, làm
phim tài liệu có liên quan đến chiến tranh Việt Nam bằng tiếng Anh để nói lên sự
thật, để không phải chấp nhận cảnh “được làm vua, thua làm giặc” là điều chúng
ta cần làm và phải làm.
Một điều may mắn là dù dư luận bị hỏa mù bởi nhóm phản
chiến, nhưng vẫn có những người có công tâm nếu chúng ta trình bày câu chuyện của
chúng ta với chứng cớ, với lý luận vững chắc, với công tâm, vấn đề vẫn được chấp
nhận và đón nhận. Lấy ví dụ của cuốn phim VIETNAMERICA đã ra mắt khán giả hơn 2
năm qua, đi trình chiếu gần 20 thành phố tại Hoa Kỳ và Canada và được sự bảo trở
của Cộng Đồng Người Việt Liên Bang Úc Châu, hội VAHF đang chuẩn bị một Tour
trình chiếu vào đầu tháng 12, 2017 tại 7 thành phố tại Úc Châu và New Zealand;
qua các thành phố Victoria, Melbourne, Adelaide, Sydney, Wollongong, Brisbane
và Auckland, New Zealand. Cuốn phim cũng đã được chọn trình chiếu tại Viện Bảo
Tàng Truyền Thông Hoa Kỳ là cơ quan cao quý nhất của truyền thông Hoa Kỳ và cả
thế giới vào Tháng Mười, 2015.
Nội trong hai Tháng Tám và Tháng Chín, 2017 vừa qua,
dư luận sôi nổi đổ dồn vào phim The Vietnam War, thì phim VIETNAMERICA cũng đã
đón nhận được một số thành quả đáng kể như đầu Tháng Tám, phim được chọn trình
chiếu tại Quốc Hội Hoa Kỳ đi kèm với một buổi Thảo luận với các diễn giả nổi tiếng
như Lewis Sorley, Robert F. Turner, khoa học gia Dương Nguyệt Ánh, nhà sản xuất
Nancy Bùi, Bác sĩ Cựu Đại tá Không Quân Mylene Huỳnh, Charlie Quý Tôn, CEO của
Regal Nails và một cuộc triển lãm tranh của nhiều họa sĩ Mỹ Gốc Việt danh tiếng
như Ann Phong, Vũ Hối, CHÓE…
Cùng trong Tháng Chín, 2017, phim VIETNAMERICA được
chính thức phát hành vào hệ thống thư viện Hoa Kỳ và được đánh giá bởi nhà phát
hành The AVCafe’ là phim đứng vào hạng đầu của loại phim tài liệu năm 2017 của
Thư Viện “The 2017 Best Librarians Documentaries.”
Tờ Library Journal’s số ra ngày September 1st, 2017
đã trân trọng giới thiệu tới độc giả với nhận xét: “Câu chuyện (phim
VIETNAMERICA) tuyệt vời này sẽ giúp khán giả hiểu biết và mang ơn vấn đề của
người tị nạn, điều mà số báo này đặc biệt đặt trọng tâm vào.”
Riêng tờ Video Librarians phát hành vào Tháng Chín
đã cho điểm phim VIETNAMERICA ngang hàng “Highly Recommended” với phim The
Vietnam War của Ken Burns và Lynn Novick cũng được điểm phim trong cùng số báo.
Chúng tôi cũng được biết hội VAHF đã phỏng vấn trên
700 nhân vật Mỹ Việt liên hệ đến cuộc chiến và người tị nạn Việt Nam. Dự định
ban đầu của hội là làm một bộ phim dài 10 tiếng, 6 tập nhưng vì không đủ ngân
quỹ nên gói gọn vào 90 phút thành phim VIETNAMERICA và đặt trọng tâm vào lý do
của cuộc chiến và tị nạn, cùng hành trình gian khổ tìm tự do để giới trẻ hiểu
được nguồn gốc tị nạn của mình và phải tạm gác những phần quan trọng khác. Hiện
hội đã và đang đưa những cuộc phỏng vấn vào thư khố điện tử để giới thiệu tới
các đại học qua địa chỉ: http://vietdiasporastories.omeka.net/
.
Từ những tài liệu có được, việc thực hiện một bộ
phim tài liệu có tầm vóc để đưa vào dòng chính về chiến tranh Việt Nam và hậu
chiến tranh sẽ chỉ còn là ngân quỹ. So sánh ngân quỹ $350,000 để thực hiện cuốn
phim VIETNAMERICA được người Mỹ đánh giá không thua gì phim The Vietnam War với
kinh phí trên $30 triệu thì ngân quỹ cần thiết để hoàn tất VIETNAMERICA toàn tập
sẽ chỉ là một con số thật khiêm nhường mà theo thiển ý của chúng tôi, cộng đồng
người Việt hải ngoại của chúng ta sẽ đủ sức để hoàn thành. Khi đó, khi các nhà
sử học nói đến chiến tranh Việt Nam, họ có thêm tài liệu để có thể nghe tiếng
nói về phía chúng ta để chúng ta không còn phải sống với lời than vãn “Được làm
vua, thua làm giặc!”
Cha ông của chúng ta vẫn dạy rằng” Hùm chết để da,
người ta chết để tiếng.” Chúng ta muốn để tiếng như thế nào về thế hệ của chúng
ta trong những bài học lịch sử lưu truyền cho con cháu chúng ta?
Người Mỹ vẫn có câu nói mà chúng ta cần học; đó là
“Don’t get mad, get even.” Tạm địch là “Đừng tức giận, hãy lấy lại công bằng!”
Nếu người Việt chúng ta quyết tâm làm được điều này thì con cháu chúng ta sẽ
không phải cúi mặt trước những bài học lịch sử mà thế hệ chúng ta lưu truyền lại.
Và chúng ta phải làm ngay bây giờ vì những nhân chứng lịch sử cả người Việt lẫn
người Mỹ đang ở lứa tuổi trên 60 trở lên, họ sẽ không còn nhiều thời gian để chờ
đợi chúng ta. (Triều Giang)
-------------------------------------------------------------
VÀI
NÉT về TRIỀU GIANG NANCY BÙI
18-10-2017
14-5-2015
No comments:
Post a Comment