Nguyễn-Xuân
Nghĩa, RFA
2017-02-15
2017-02-15
Từ một tháng nay, một số quốc gia, đứng đầu là Trung
Quốc và Nhật Bản, đã bán ra Công khố phiếu của Hoa Kỳ khiến nhiều người lo ngại
là các chủ nợ không muốn cho nước Mỹ vay tiền nữa và hậu quả có thể là những biến
động về ngoại hối, với Mỹ kim sẽ lại lên giá.
Nhiều
nước bán ra công khố phiếu Mỹ
Nguyên
Lam: Thưa ông, sau khi Hoa Kỳ có lãnh đạo mới với vị
Tổng thống thứ 45 là ông Donald Trump thì trong tháng qua các thị trường tài
chính thế giới bỗng chú ý đến việc nhiều quốc gia lặng lẽ bán số Công khố phiếu
Mỹ mà họ đã mua vào từ trước. Tại sao lại có hiện tượng này, phải chăng là các
quốc gia chủ nợ không cho nước Mỹ vay tiền nữa, và liệu rằng thế giới có gặp những
động ngoại hối hay chăng?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Nhiều người cho rằng các quốc gia xưa nay vẫn
đầu tư vào thị trường Công khố phiếu Hoa Kỳ thấy không yên tâm về chính sách
kinh tế mới của Chính quyền Donald Trump nên mới bán tháo tài sản đã mua của Mỹ.
Tôi lại nghĩ khác và xin giải thích một chút.
- Thứ nhất, từ Tháng 11 vừa qua, quốc gia chủ nợ số
một của Hoa Kỳ là Nhật Bản chứ hết là Trung Quốc vì Nhật đang làm chủ khoảng
1.100 tỷ đô la Công khố phiếu Mỹ so với 1.000 tỷ trong tay Trung Quốc.
- Thứ hai, thị trường Công khố phiếu đó của Hoa Kỳ
trị giá gần 14.000 tỷ đô la thì có gần 6.000 tỷ là trong tay nước ngoài, tức là
ngoại quốc làm chủ khoảng 43% số công trái chính thức của Hoa Kỳ, nếu họ có bán
ra vài chục vài trăm tỷ đô la trong số nợ này thì cũng không là điều đáng ngại.
- Thứ ba, Trung Quốc bán ra nhiều nhất vì lý do nội
tại của họ chứ không vì thiếu tín nhiệm vào chính sách kinh tế của Chính quyền
Trump.
- Thứ tư, nếu có nước bán ra thì cũng lại có nước
mua vào và chính là giới đầu tư Hoa Kỳ cũng mua lại nên sự tình không nguy ngập
như người ta báo động.
- Sau cùng chiều hướng bán Công khố phiếu Mỹ cũng chỉ
là chuyện bình thường khi Hoa Kỳ và các nước đang có thay đổi lớn để tiến tới một
thế quân bình ngoại hối khác.
*
Nguyên
Lam: Thưa ông, chúng ta có thể đi lại từ đầu là sự
kiện đáng chú ý tại Á châu, kể cả Việt Nam, là các ngân hàng Á châu, đứng
đầu là Trung Quốc và Nhật Bản, lại giữ một khối dự trữ rất lớn bằng Đô la
Mỹ, nhất là dưới dạng Công khố phiếu, là nợ chính thức của nhà nước Hoa Kỳ. Vì
sao lại có hiện tượng ấy và hậu quả sẽ ra sao khi người ta bán ra các tài
sản ấy?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Trước hết, tôi xin được nói là chúng ta đã chứng
kiến một hiện tượng tôi gọi là “phân công lao động” trong ngoặc kép, giữa một
bên là Á châu có sức tiết kiệm cao, cứ thắt lưng buộc bụng xuất khẩu tối đa vào
Mỹ, và bên kia là Hoa Kỳ, có mức tiêu thụ quá lớn, cả tư nhân lẫn chính quyền,
và rộng rãi mua hàng Á châu. Kết quả là Mỹ bị nhập siêu, các nước Á châu được
xuất siêu và có dự trữ lớn bằng đô la. Thế thì họ dùng Mỹ kim đó làm gì? Họ đầu
tư lại vào Hoa Kỳ, chủ yếu dưới hình thức Công khố phiếu. Kỳ trước, ta đã có dịp
nhắc đến khái niệm kế toán tài chính là một nước bị nhập siêu về thương mại thì
cũng nhập khẩu luôn tư bản của xứ khác. Hoa Kỳ tiếp nhận đầu tư của các nước
trong ý hướng đó.
*
Nguyên
Lam: Nhưng thưa ông, vì sao lại có cái thế phân công kỳ lạ đó?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Chiều hướng phân công ấy đang chấm dứt và có
khi ta trở lại một thế quân bình khác khi Hoa Kỳ không muốn bị nhập siêu nữa và
điều ấy sẽ ảnh hưởng đến thị trường ngoại hối trong tương lai. Còn về cái thế
tôi tạm gọi là “phân công lao động” này thì nguyên do sâu xa thuộc diện văn hóa
và xã hội, khiến dân chúng Á châu luôn luôn có phản ứng tiết kiệm, bình quân có
thể lên tới 30% số thu nhập, thậm chí còn cao hơn vậy tại Trung Quốc. Bất ổn xã
hội, loạn lạc hay cả nỗi lo thất nghiệp có thể giải thích điều đó. Ngược lại,
cũng thuộc diện văn hóa, thì dân Mỹ vốn lạc quan với tương lai nên ưa xài trước
kiếm sau cho tới nay mới nghĩ lại. Hiện tượng ấy thực ra mới chỉ có chừng một
thế kỷ thôi.
Vào giữa thế kỷ 19, chính Nhật đã học kinh nghiệm và
thói quen tiết kiệm của dân Mỹ để phát triển ra mạng lưới tiết kiệm rộng lớn mà
họ có ngày nay.
Nguyên nhân gần hơn là cuộc khủng hoảng kinh tế Đông
Á vào các năm 1997-1998 khiến các nước Á Châu cần thuyết phục thị trường về nền
móng tài chính ổn định bằng cách tích lũy một khối dự trữ ngoại tệ rất lớn. Gần
hơn nữa thì có một lý do là từ năm 2001, Mỹ liên tục cắt giảm lãi suất để kích
thích tiêu thụ và đối phó với bất ổn kinh tế xảy ra vì nạn khủng bố năm đó,
trong khi các nước Đông Á lại bị suy trầm kinh tế. Sau cùng thì có nạn Tổng suy
trầm năm 2008-2009 với hậu quả bất lợi cho tới nay vẫn chưa dứt.
Có một lượng dự trữ lớn lao nằm dư dôi trong kho bạc
thì không có lời, vì vậy, người ta mới lấy một phần dự trữ này đầu tư vào nơi
an toàn và có lời nhất: đây là lý do mà họ giữ một tỷ lệ Mỹ kim rất cao trong
khối dự trữ và đầu tư lại vào thị trường tài chính Mỹ. Kết quả là Á châu thắt
lưng buộc bụng bán hàng cho Mỹ, thu hút đầu tư từ bên ngoài và lấy được tiền Mỹ
thì lại gửi ngược vào thị trường Mỹ để tài trợ số thâm hụt thương mại của Mỹ.
Trong câu hỏi nêu lên, ta cần phân biệt các ngân hàng thương mại với ngân hàng
trung ương và phân biệt cả việc mua Công khố phiếu lẫn đầu tư vào Mỹ. Vì Trung
Quốc chưa có chế độ tự do hối đoái nên vấn đề ta đang nói tập trung trước hết
vào chính sách của ngân hàng trung ương, vào khối dự trữ ngoại tệ của Bắc Kinh.
Ngân
hàng châu Á dự trữ đô la Mỹ
Nguyên
Lam: Thưa ông, tại sao các nước đó không giữ khối
dự trữ dưới dạng khác, như vàng hoặc các ngoại tệ mạnh, như đồng Euro, đồng Bảng
Anh, đồng Phật lăng Thụy Sĩ chẳng hạn?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Yếu tố quyết định ở đây là rủi ro và lời lãi.
Tài sản mà mình lưu trữ phải an toàn, có lời và không bị mất giá vì loạn lạc
hay lạm phát chẳng hạn. Với bất ổn vì chiến tranh và khủng bố, hay khủng hoảng
tài chính trong khối Euro của Âu Châu từ năm 2010 thì Hoa Kỳ vẫn là thị trường
có triển vọng sinh lời cao và an toàn vì có cơ chế kinh tế tự do và luật lệ
minh bạch. Ngoài ra, thị trường tài chính Mỹ có kích thước lớn nhất nên thừa khả
năng chịu đựng những lượng tư bản cả trăm tỷ có thể rút ra hay trút vào, các thị
trường kia không được như vậy. Sau cùng, Mỹ kim còn là phương tiện giao hoán phổ
biến và lưu hoạt nhất vì được dùng để thanh toán các dịch vụ mua bán. Thí dụ
như các thị trường dầu khí đều mua bán và yết giá bằng đô la Mỹ.
*
Nguyên
Lam: Thưa ông, phải chăng Hoa Kỳ đã khai thác tình trạng ấy qua chính
sách bội chi và phát hành công trái để thu hút đô la về Mỹ và nay
đang đòi thay đổi, hết muốn bị nhập siêu và đang tìm cách quân bình lại ngân
sách?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Tôi nghĩ rằng quan hệ kinh tế của thế giới và
của riêng Hoa Kỳ quá sức phức tạp để một chính quyền hay một ngân hàng trung
ương có thể chủ động đặt ra một chính sách theo hướng này hay hướng khác cho
toàn thế giới, thí dụ như cố tình thu hút đô la về Mỹ. Thực tế thì nước Mỹ để
cho quy luật cung cầu tác động. Khi bị nhập siêu quá lớn và bội chi quá nhiều
thì tiền Mỹ phải sụt giá như đã từng bị. Nhưng ngày nay, tình hình kinh tế Mỹ
đã khả quan hơn cả và lạm phát đang là mối quan tâm mới nên lãi suất tại Hoa Kỳ
có thể tăng trong khi Chính quyền Trump lại sợ Mỹ kim lên giá sẽ gây bất lợi
cho xuất khẩu. Trong tình trạng bất định giữa buổi giao thời này, người ta dễ
có phản ứng hốt hoảng làm thị trường càng dễ biến động.
*
Nguyên
Lam: Nếu như Hoa Kỳ không muốn bị nhập siêu nặng và Mỹ
kim quá cao giá so với các ngoại tệ khác như ông Trump đã phát biểu thì có lúc
nào mà các nước Á châu sẽ bán đô la để mua lại nội tệ của họ không, và lúc
đó tình hình sẽ ra sao?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Thật ra, trường hợp này khá hãn hữu. Từ gần 40 năm
nay mới chỉ có hai lần mà các ngân hàng trung ương bán tháo công khố phiếu Mỹ.
Lần đầu là năm 1979 khi vật giá Mỹ gia tăng và Mỹ đổi chính sách tiền tệ bằng
cách thả nổi lãi suất và chỉ điều tiết khối tiền tệ lưu hành thôi; lần đó, các
ngân hàng trung ương bán ra 22 tỷ đô la. Lần thứ hai là quãng 1999, khi Mỹ bớt
phát hành trái phiếu và các ngân hàng trung ương e sợ rủi ro và tiền Mỹ mất
tính lưu hoạt, họ bán ra 5 tỷ đô la.
Ngày nay, người ta đang sợ một đợt thứ ba, nhưng thật
ra số lượng bán ra cũng chẳng nhiều so với 14,000 tỷ đô la Công khố phiếu. Nói
về hậu quả thì về dài, có thể tiền Mỹ còn giảm đến 15%-20% so với các ngoại tệ
khác thì mới gọi là cân bằng cung cầu nhưng ngược lại, cả lãi suất lẫn phân lời
trái phiếu tại Mỹ sẽ tăng nếu Chính quyền Trump thực thi kế hoạch kinh tế đã hứa
hẹn. Điều đáng ngại ở đây nằm trong lãnh vực khác, là hiện tượng đầu cơ tại các
nước Đông Á, nhất là Trung Quốc.
*
Nguyên
Lam: Thưa ông, vì sao lại có hiện tượng này và hậu quả sẽ
ra sao?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Thế giới từng đơn giản hóa coi Á châu như là
nơi có lời, nên trút tiền đầu tư vào đấy. Ngày nay thì tình hình đảo ngược, nhất
là tại Trung Quốc khi tư bản tẩu tán ra ngoài và dự trữ ngoại tệ của xứ này trị
giá từ gần bốn ngàn tỷ đô la thì tháng qua đã sụt dưới cái ngưỡng tâm lý là ba
ngàn tỷ. Việc Ngân hàng Trung ương Bắc Kinh bán ra Công khố phiếu Mỹ từ Tháng
Năm đến nay không có nghĩa là họ bỏ phiếu bất tín nhiệm kinh tế Hoa Kỳ hoặc muốn
trả đũa nước Mỹ vì những tranh chấp ngoại thương mà vì nguyên do nội tại của họ.
Chưa kể là nếu bán quá nhiều quá nhanh thì tài sản ấy lại mất giá khiến họ càng
lỗ nữa, chứ việc họ bán tháo Công khố phiếu Mỹ chẳng làm thị trường Mỹ bị náo động
như người ta vẫn cứ sợ.
*
Nguyên
Lam: Vì thời lượng có hạn, xin ông kết luận cho về
một vấn đề quá phức tạp này...
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Hoa Kỳ đang cần điều chỉnh lại tình hình chi
tiêu của mình, từ ngân sách đến ngoại thương, đã đành như vậy cho nên việc Mỹ
kim có thể tuột giá nằm trong tiến trình điều chỉnh đó. Ngược lại, Á châu cũng
cần điều chỉnh lại chiến lược phát triển, không quá chú trọng đến xuất khẩu bằng
mọi giá nữa, nhất là khi Mỹ đang muốn hạn chế nhập khẩu và gia tăng xuất khẩu.
Cho nên các quốc gia đông dân hoặc có nền kinh tế lớn cần nâng cao khả năng
tiêu thụ của thị trường nội địa, cải tiến môi trường đầu tư trong nước để có
phương tiện phát triển. Tiền của mình giúp cho giới tiêu thụ Mỹ mua hàng rẻ
thay vì giúp cho kinh tế và xã hội mình thăng tiến thì chẳng là điều hay. Các
nước Đông Á, nhất là Trung Quốc và Việt Nam, đã quên bài học chua xót của Nhật
Bản khi dồn sức xuất khẩu mà lãng quên thị trường nội địa và gặp lại hiện tượng
bể bóng đầu tư như Nhật Bản đã bị từ năm 1991 cho đến nay. Bảo rằng mình là chủ
nợ của Mỹ thì niềm tự ái đó cũng chỉ là tượng trưng. Khi khủng hoảng xảy ra, có
đổ lỗi cho Hoa Kỳ hay giới đầu cơ ngoại tệ thì cũng thừa.
Nguyên
Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam
xin cảm tạ chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.
No comments:
Post a Comment