Có thể nói, kể từ ngày lập quốc, chưa có
chế độ xã hội nào thối nát, con người vô cảm như hiện nay. Sự vô
cảm ấy, làm con người trở nên yếu đuối, và đê hèn. Cả ngàn người
viết, hàng vạn người mang danh học hành, bằng cấp, nhưng khó tìm ra
một nhà văn, một trí thức đích thực. Vâng! Một đất nước có hồn khí
như vậy, chắc chắn đang bước tới hố sâu, và ngõ cụt. Từ đó có thể
thấy, thịnh suy dẫn đến sự đổ nát, suy tàn của một triều đại là
điều khó tránh khỏi. Đó cũng là qui luật tất yếu của lịch sử.
Bởi, cái cũ chắc chắn sẽ được thay bằng cái mới phù hợp với sự
phát triển văn hóa, khoa học cũng như khát vọng của con người. Tuy
nhiên, để làm được điều đó, cần phải có nhiều yếu tố. Thơ văn và
nhận thức tư tưởng thi sĩ nói riêng và của con người nói chung là
một trong những ngòi dẫn, yếu tố quan trọng.
Và trong cái gật gù, u mê ấy, nếu được phép
chọn ra những nhà văn, thi sĩ ở trong nước gạt bỏ được tạp niệm,
bùa chú đó, với tôi, người đầu tiên phải là Thái Bá Tân, Nguyễn
Quang Lập, Bành Thanh Bần...
Từ
trách nhiệm công dân đến chuyển biến tư tưởng
Nói đến Thái Bá Tân, có lẽ rất nhiều người
biết, ông là một nghệ sĩ đa tài. Ngoài tài năng văn thơ, đàn ca sáo
nhị, ông còn là dịch giả, một người thày đầy lòng nhân ái.
Thái Bá Tân sinh năm 1949 tại Diễn Châu, Nghệ
An, trong một gia đình truyền thống khoa bảng. Ông tốt nghiệp trường
Đại học ngoại ngữ Moskau, rồi về giảng dạy tại trường Đại học sư
phạm ngoại ngữ Hà Nội, và Ủy viên đối ngoại của Hội nhà văn VN sau
này. Có thể nói, ông là một trí thức, con cưng của chế độ CS, được
đào cơ bản từ trong cho đến ngoài nước, hiện đang sống và làm việc
tại Hà Nội.
Khởi đầu Thái Bá Tân đến với văn chương bằng
dịch thuật, rồi truyện ngắn và thơ lục ngôn, bát ngôn... Tuy nhiên,
những năm gần đây, ông được mọi người biết đến và yêu mến nhiều hơn
với mảng thơ thế sự, xã hội theo thể ngũ ngôn. Thơ thời sự là mảng
thơ khó nhằn, khó viết, cho nên rất ít người dám đi đến tận cùng.
Bởi, ngoài tài năng, nó cần sự dũng khí, cũng như mất mát, hy sinh
không chỉ riêng bản thân người viết, mà cho cả gia đình, dòng họ.
Khi đọc và nghiên cứu Thái Bá Tân, tôi thực
sự khâm phục sự lòng dũng cảm, can trường của ông. Thơ ông gắn liền
với thân phận đất nước và con người, cũng như phơi bày sự thối nát
của chế độ xã hội đương thời. Để có những vần thơ, trang viết này,
tôi nghĩ, ngoài tình yêu đất nước, lẽ phải, công bằng, Thái Bá Tân
còn được đi nhiều, và hầu hết khắp các châu lục, nhất là các nước
tự do dân chủ. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức, tư tưởng của
ông. Ta có thể thấy, sự chuyển biến nhận thức, tư tưởng của ông thật
rõ ràng về chân tướng cũng như sự lưu manh hóa của chủ nghĩa CS qua
bài thơ Cộng Sản:
“...Elsin, ai cũng biết,
Trùm cộng sản Nga Xô:
Cộng sản không thể sửa,
Mà phải chôn xuống mồ.
Rồi ông Gorbachev:
Tôi bỏ nửa đời người
Theo lý tưởng cộng sản,
Tưởng nó đẹp nhất đời.
Thế mà giờ chua xót,
Phải tuyên bố điều này:
Cộng sản chỉ dối trá,
Luôn dối trá xưa nay.
Tiếp đến, một trùm nữa,
Ông Putin, người hùng:
Ngu mới tin cộng sản.
Theo cộng sản là khùng.
Từng sống với cộng sản,
Bà Merkel ngày nay
Là thủ tướng nước Đức
Thì phát biểu thế này:
Cộng sản thật đáng sợ,
Làm tha hóa con người,
Biến họ thành dối trá,
Thờ ơ và lõi đời.
Một người rất đáng kính,
Đức Dalai Lạt Ma
Của nước xưa Tây Tạng
Thì nói với chúng ta:
Công sản là cỏ dại
Trên đổ nát chiến tranh.
Nó là loài trùng độc
Trên rác đời hôi tanh...”
Đọc nhiều, đi nhiều đã cho Thái Bá Tân sự
hiểu biết, để có thời gian nhìn lại mình, và nhận ra giá trị thật
sự của đất nước, con người dưới chế độ cộng sản, mà bấy lâu nay
từng được tô hồng, che đậy. Qua bài Tự Bạch, ta không chỉ
thấy được sự thật nhục nhã ấy, mà còn thấy được tính khẳng khái,
lòng dũng cảm của ông:
“...Chứ nói chung là nhục.
Nhục phải làm thằng dân
Một nước giỏi nói phét,
Lãnh đạo thì ngu đần.
Riêng hai chữ “cộng sản”
Đã đủ nói phần nào.
Làm thằng dân cộng sản
Có gì mà tự hào?
Mà tự hào sao được
Khi mấy triệu dân ta
Vượt biên, thà chết biển
Hơn phải chết ở nhà!
Tự hào là yêu nước.
Yêu nước phải biểu tình.
Mà biểu tình nó oánh.
Quân ta oánh quân mình.”
Nếu không có nhận thức và biến chuyển tư
tưởng, thì có lẽ, thơ Thái Bá Tân không thể có cái đau cùng nỗi đau
của dân tộc và đồng loại. Khóc là một bài thơ như
vậy. Ngoài sự phơi bày tội ác đày đọa, giết người hàng loạt, một
cách dã man của chủ nghĩa CS, nó còn cho người đọc thấy được diễn
biến tâm lý của nhà thơ: “Vứt mẹ cái khẩu hiệu / Còn đảng là còn
mình./ Thế mai kia đảng chết / Không lẽ mày quyên sinh?” Và từ diễn
biến nội tâm ấy, đã đẩy tâm trạng từ ngạc nhiên lên đến sự phẫn uất
căm hờn. Có thể nói, nhận thức tư tưởng của nhà thơ đi từ thấp đến
cao, và nó đã hoàn toàn tháo bỏ được chiếc ách cộng sản quàng
chặt trên mình từ bấy nay:
“Mười mấy năm về trước
Tôi đọc cuốn “Sách Đen
Về chủ nghĩa cộng sản”,
Rồi ngồi thừ, ngạc nhiên.
Sách đen nhưng giấy trắng,
Nói về chủ nghĩa này,
Về số triệu người chết,
Và người bị đọa đầy.
Khi đọc đến con số
Người Việt Nam, than ôi,
Đã phải chết vì nó,
Tôi khóc cho nước tôi.
Con số là nhiều triệu,
Nhiều triệu những mạng người.
Rất có thể, ai biết,
Thêm người nữa là tôi.
Gần mười năm sau đó,
Tôi đến Washington,
Và rồi tôi lại khóc,
Khi phẫn uất, căm hờn
Tôi đứng bên bức tượng
Nạn nhân chủ nghĩa này.
Một trăm triệu người chết.
Một trăm triệu xưa nay...” (Khóc)
Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm, Thái Bá Tân
hay Bành Thanh Bần, Nguyễn Quang Lập... họ chỉ là những nhà thơ, nhà
văn bình thường, và làm đúng nghĩa vụ công dân. Họ viết và nói lên
những sự thật đang diễn ra hàng ngày, khi hàng ngàn nhà văn, trí
thức khác lặng im, ngậm miệng ăn tiền. Chúng ta (người đọc) không nên
nghĩ, ghép họ với những nhà dân chủ, hay phản kháng xổ toẹt Mác, ly
khai cộng sản như các nhà văn: Võ Thị Hảo, Dương Thu Hương, Phạm
Thành... để rồi đến lúc thất vọng, buông ra những lời nói, từ ngữ
xúc phạm không đáng có, như thời gian vừa qua.
Có điều kỳ lạ, nhiều người không biết sống
ở trong nước hay nước ngoài, tên đểu hay tên thật, luôn lớn tiếng cho
tự do dân chủ. Thế nhưng chỉ cần một ý kiến, một bài viết khác ý,
họ sẵn sàng mạt sát bằng những từ ngữ chợ búa. Tôi không rành về
chính trị, nhưng thiết nghĩ, chính quyền rơi vào tay những người này,
có lẽ họ còn sắt máu hơn cả CS Mao- Polpot.
Và với tôi, chỉ cần một nửa nhà văn VN, viết
và có tư tưởng nhận thức như thi sĩ Thái Bá Tân, Nguyễn Quang Lập,
Bành Thanh Bần... thì đất nước, con người có lẽ đã khác đi rất
nhiều. Sự thối nát, độc quyền tư tưởng, độc quyền chân lý, độc
quyền lãnh đạo của Đảng CS sẽ bị phơi bày. Nó góp phần không nhỏ
cho sự nghiệp dân chủ hóa đất nước.
Vâng! Đang sống dưới chế độ CS, làm được như
vậy, đã là điều đáng kính, đáng khâm phục lắm rồi. Điều đó, không
phải ai cũng làm được.
Nghệ
thuật sử dụng con chữ trong ngũ ngôn thơ
Có thể nói, tôi đã đọc Thái Bá Tân khá
nhiều. Thơ cũng như văn của ông từ ngữ mộc mạc, dễ hiểu. Truyện ngắn
gây cho tôi nhiều ấn tượng, bởi nó gần với đạo giáo, cùng với lòng
nhân đạo cao cả. Đôi khi nó chỉ là những câu chuyện vặt hàng ngày,
nhưng mang thông điệp lớn, buộc người đọc phải suy nghĩ. Với tôi, Chuyện
Làng Và Người Làng là một trong những truyện ngắn hay nhất
của ông, và cũng là truyện ngắn hay của văn học Việt, trong thời gian
gần đây. Có điều lạ, dường như Thái Bá Tân ít quan tâm đến đặt tên
(tựa đề) cho truyện của mình. Chuyện Làng Và Người Làng là
một ví dụ. Tuy chuyện kể về làng và người làng, nhưng hồn cốt là
quá trình diễn biến nội tâm dẫn đến sự sám hối (tội lỗi) của một
con người, hay của cả thế hệ... Do vậy, với cái tựa đề sơ sài trên,
khó có thể là cái hom, cái giỏ chứa đựng hết hàm ý nội dung, ý
đồ chuyển tải của tác giả.
Và những năm gần đây tôi được đọc, biết đến
thơ thế sự, xã hội của Thái Bá Tân, viết dưới thể ngũ ngôn. Phải
nói, nó đã gây cho tôi ấn tượng và cảm xúc mạnh. Bởi, ông không chỉ
thổi hồn, mà còn làm mới ngũ ngôn thơ bằng nghệ thuật sử dụng từ
ngữ, cũng như kỹ thuật vắt dòng, hay bắc cầu. Giống như lục bát, thơ
ngũ ngôn dễ làm, nhưng khó hay, nếu nhà thơ không có tài. Theo dòng
văn học sử, ta có thể thấy, ngoài Ông Đồ của Vũ Đình
Liên, Em Đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Tiếng
Thu của Lưu Trọng Lư, Khi Chưa Có Mùa Thu của
Trần Mạnh Hảo... thơ ngũ ngôn để lại cho đời không nhiều.
Có một điều thú vị, cả hai tác giả đương
đại đưa khẩu ngữ vào văn và thơ đều xuất thân từ miền Trung (Quảng
Bình, Nghệ an). Nếu khẩu văn Nguyễn Quang Lập gần gũi hài tính, gây
cười, thì khẩu thơ của Thái Bá Tân là lời tự sự, truy vấn làm cho
người đọc chìm vào nỗi đau của đất nước, con người, cũng như thế
thái nhân tình.
Thái Bá Tân viết nhiều thể loại, dịch nhiều
sách, tuy được nhiều người biết đến, kể cả độc giả ngoại quốc.
Nhưng chỉ đến khi ông dùng ngũ ngôn thơ chọc thẳng vào ung nhọt của
xã hội, nóng hổi tính thời sự thì tên tuổi ông mới đóng đinh vào
lòng người đọc trong và ngoài nước. Và chính nó đã làm nên chân dung
nhà thơ, nhà văn vạm vỡ Thái Bá Tân được nhiều người yêu mến của
ngày hôm nay.
Có thể nói ngay, thơ Thái Bá Tân hay trước
nhất ở cái tứ. Và dường như bài nào cũng vậy. Đến với ngũ ngôn thơ
ta thấy ông đã thay đổi hoàn toàn cách viết, từ ngôn ngữ cho đến
cách gieo vần. Tuy lời thơ dân dã, nhưng ông đã sử dụng kỹ thuật ngắt
nhịp, vắt dòng làm cho bài thơ hay đến lạ lùng. Những Người
Ở Lại là bài thơ điển hình như vậy. Nó không chỉ cho ta thấy
sự ngơ ngác, mất niềm tin đi đến bế tắc của người dân lương thiện,
mà còn thấy được sự lưu manh hóa của những ông quan cách mạng, dưới
cái chủ thuyết xã hội không tưởng. Chúng ta đọc lại lời kể, hay của
một lời than dưới đây để thấy rõ điều đó:
“...Quan, những người cách mạng,
Lặng lẽ tích đô-la
Để thành công dân Mỹ,
Tây Âu, Canada...
Ta, những người ở lại,
Đang thử hỏi còn gì?
Còn lại một núi nợ,
Một xã hội trái chiều.
Những câu khẩu hiệu đỏ
Và một mớ giáo điều.
Một môi trường hủy diệt.
Một đất nước, người dân
Mất niềm tin, ngơ ngác,
Đành tin vào thánh thần.
Một dân tộc bất lực
Nhìn cái ác lên ngôi.
Bất lực chịu ngang trái
Và đạo đức suy đồi.”
Tôi đã đọc, và viết khá nhiều về chân dung
các nhà thơ, nhà văn đang sống trong cũng như ở ngoài đất Việt. Hai
nhà thơ Luân Hoán và Thái Bá Tân để lại trong tôi ấn tượng khá đặc
biệt, bởi cái lối kể chuyện bằng thơ. Luân Hoán hiện đang cư ngụ tại
Canada, là nhà thơ miền Nam, thuộc thế hệ đi trước. Nếu thơ của Luân
Hoán là câu chuyện tình, chuyện đời, thì thơ ngũ ngôn Thái Bá Tân
mang nặng tính thời sự, với những câu chuyện nóng hổi vừa xảy ra.
Nó bám chặt lấy cuộc sống, bám chặt lấy những thăng trầm của đất
nước, và con người. Đọc, nghiên cứu, ta cảm giác, Thái Bá Tân làm thơ
cứ như đùa, như chơi vậy. Mộc mạc, thô ráp là thế, nhưng cái dí dỏm
ấy sắc nhọn như mũi dao chích vào lòng người.
Thật vậy, đọc bài Lại Phim Hăm Mốt Tỉ,
ông viết cách nay không lâu, cho ta thấy, dù có đốt đến tiền tỉ, hút
kiệt máu và nước mắt của nhân dân, cũng không thể che đậy được cái
giả dối, bầy đàn, một cách kịch cỡm của những kẻ xu thời, nịnh
thế:
“...Một bộ phim hoành tráng,
Tốn hăm mốt tỉ đồng
Để ca ngợi tướng Giáp.
Thế mà rạp trống không.
-----------------------------
Là con người, ông Giáp
Chết, tất nhiên tôi thương.
Là lãnh đạo, thú thật,
Tôi thấy cũng bình thường.
Chí ít không vật vã
Gào khóc như lên đồng.
--------------------------
Lạ, những người khóc ấy
Sao bây giờ lặng thinh?
Không xem phim ca ngợi
Người anh hùng của mình?
Mà trước đấy tướng Giáp
Bị làm nhục nhiều năm,
Rồi ốm nặng, sao họ
Không một lần đến thăm?
Bao giờ dân Đại Việt,
Vốn văn minh, khôn ngoan
Mới chợt tỉnh để thoát
Cái tâm lý bầy đàn?”
Ngược dòng văn học sử, ta có thể thấy từ
thuở chưa có chữ viết, ông cha ta đã sáng tác, đúc kết truyền miệng
những câu hoặc bài thơ châm ngôn về đạo đức và lối sống. Trải qua bao
thăng trầm, nhiều câu, nhiều bài còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.
Tuy nhiên, những năm gần đây, cùng với văn học dân gian, thơ châm ngôn ít
được nhà chức trách và giới sáng tác, nghiên cứu quan tâm. Người
sáng tác chuyên tâm, chuyên nghiệp dường như không có. Có lẽ, nó đòi
hỏi một sự khắt khe chăng? Bởi, người viết thơ châm ngôn, ngoài tài
năng, nhân cách, dứt khoát phải có kiến thức, vốn sống và từng trải
về nhiều lãnh vực.
Thế nhưng, khi đi vào nghiên cứu Thái Bá Tân,
ta có thể thấy, riêng thơ châm ngôn của ông không dừng lại con số bảy
tập. Đây là con số nói lên sức viết, khả năng sáng tạo đáng kính
phục, bởi một người cùng lúc làm nhiều công việc như Thái Bá Tân.
Và không đi theo thể lục bát truyền thống, thơ châm ngôn năm chữ (ngũ
ngôn) của ông vẫn thủ thỉ, mang đậm tính triết lý của cuộc sống:
“Ta hay quá sốt sắng
Quan tâm đến mọi người,
Mà quên ta là người
Đáng được quan tâm nhất.
Ta thường tìm hạnh phúc
Ở đâu đó rất xa,
Mà quên rằng hạnh phúc
Ở ngay chính trong ta.
Nghe, ai mà chả thích
Nghe những điều ngọt ngào.
Vì mặt trời chói mắt,
Ta thích ngắm trời sao.
Nhưng làm nên sự sống
Lại chính là mặt trời,
Không phải sao lấp lánh,
Mờ ảo và xa vời.”
Ngũ ngôn là thể thơ có nhịp cũng như ngôn từ
gần gũi với câu nói thường nhật, nên dễ nhớ, dễ thuộc đi vào lòng
người, kể cả những đề tài khô khan như thời sự, xã hội. Tuy nhiên, do
những đặc điểm như vậy, nên giữa thơ và vè luôn có khoảng cách rất
mong manh, nếu nhà thơ thật sự không có tài. Và đọc Thái Bá Tân ta
có thể thấy, dù là nhà thơ tài năng, luôn tìm tòi, sáng tạo, nhưng
thơ ngũ ngôn của ông cũng còn một số câu, bài dở, nhất là mảng thơ
châm ngôn. Có lẽ, do ông viết nhanh và nhiều chăng? Âu đó cũng là điều
rất bình thường của bất cứ nhà thơ, nhà văn nào.
Bộ
mặt thật của chế độ, và sự nhu nhược của con người
Hơn một lần tôi đã viết, Thái Bá Tân và Bành
Thanh Bần là hai thi sĩ đang sống ở trong nước, viết về mảng thế sự,
xã hội, mang lại nhiều xúc cảm cho người đọc. Tuy bút pháp, cũng như
thể loại thơ hoàn toàn khác biệt, nhưng không ai có thể phủ nhận
dũng khí của hai thi sĩ Thái Bá Tân và Bành Thanh Bần. Có lẽ, đây
là hai cây bút hàng đầu của thi ca đất Việt dám đi đến tận cùng
những vấn đề gai góc, nhức nhối nhất của đất nước, con người trong
thời gian gần đây. Nếu Bành Thanh Bần, chỉ có vốn liếng của một gã
thợ cày, với những câu lục bát dân dã, đã lật ngược bộ mặt thật
của chế độ, thì Thái Bá Tân, một trí thức được đào tạo cơ bản từ
trong đến ngoài nước, dùng “Ngũ ngôn thơ” chọc thẳng vào những ung
nhọt của xã hội.
Thật vậy, Thái Bá Tân luôn trăn trở cùng quốc
gia, dân tộc. Mỗi biến cố, sự kiện dù lớn hay nhỏ, thơ ông đều ghi
lại cùng với những câu hỏi, truy vấn làm quặn thắt lòng người. Dẫu
biết rằng, câu hỏi ấy, ai cũng biết và có thể trả lời. Xin
Nhường Cho Chính Quyền, tuy chưa phải là bài thơ hay nhất của Thái
Bá Tân, nhưng tôi thích, không phải vì tiếng cười thích thú, hân hoan
của dân chúng trước sự bắn giết nhau của đám quan tham, mà bởi tiếng
súng ấy, đã báo hiệu ngày cận kề sụp đổ, đền tội của một chế độ
đã mục nát:
“Dường như đang bung vỡ
Khối ung nhọt lâu nay.
Bí thư đảng Yên Bái
Bị bắn giữa ban ngày…
Thủ phạm, cũng quan lớn –
Trưởng chi cục kiểm lâm.
Còn một nạn nhân nữa,
Một quan ban phát quyền,
Là trưởng ban tổ chức,
Mà chức là có tiền.
Mạng người nào cũng quí,
Cả dân và cả quan.
Sao nhiều người không xót,
Thậm chí còn hân hoan?...”
Không chỉ quay ngược bút, chọc vào đám văn nô
cùng trong Hội: “những Lũ văn nô, đĩ bút/ Mới là bọn bất lương/ Khóc
mướn quan tham nhũng/ Lên mặt dạy dân thường.” mà Thái Bá Tân còn
vạch trần bộ mặt ngu xuẩn, lộn ngược gia phong của những tên quan
tuyên huấn: “Chắc có thằng tuyên huấn/ Vừa ngu dốt vừa lười/ Xưa tớn
lên, chấp bút/ Đặt đảng ngang với trời.” Bởi, với chúng, chỉ có
nấp sau đảng, sau cái thứ quyền lực đổi trác, bán mua ấy mới có
thể đục khoét, làm giầu một cách bất lương:
“...Biệt thự tám mươi tỉ
Bên túp lều xác xơ
Là bất lương tột đỉnh
Đất nước ta bây giờ
Quan xứ núi đã thế,
Quan thủ đô thì sao?
Chúng, quan của mọi xứ,
Đang hút máu đồng bào...”
Không dừng lại mức độ đục khoét tham nhũng,
mà bọn cường hào thống trị mới còn tàn nhẫn, man rợ hơn nữa. Thật
vậy, chúng không từ bất cứ một thủ đoạn nào đối với đất nước,
đồng bào, đồng đội. Hình ảnh những người lính gục ngã, bởi bị bán
mua ngay nơi chiến trường là bức tranh thu nhỏ của đất nước hôm nay:
“...Chuyện kể rằng, lần ấy,
Khi đánh nhau với Tàu,
Quân ta và quân địch
Cách nhau một chiếc cầu.
Bỗng từ trên có lệnh
Một đại đội xung phong
Vượt qua cây cầu ấy,
Sang bờ bên kia sông.
Thế mà lạ, sau đó,
Hai bên đang đánh nhau,
Có lệnh từ trên xuống.
Lần này lệnh phá cầu!...” (Ballad về một đại đội bị bỏ rơi)
Võ Nguyên Giáp cũng
là một bài thơ hay của Thái Bá Tân. Ông có một cái nhìn trung thực,
và đánh giá một cách khách quan về một nhân vật của lịch sử. Bài
thơ ra đời, có lẽ ông bị áp lực từ nhiều phía, nhất là những kẻ
có hai bộ mặt trong một con người. Đọc bài thơ này, dường như có một
sự đồng cảm nào đó, làm tôi nghĩ ngay đến một bài viết của mình,
ngay sau ngày tang lễ cụ Võ Nguyên Giáp:
“...Sau cái chết và lễ tang cụ Võ Nguyên Giáp, một
nhóm, trong đó có cả một số nhà thơ tên tuổi, phát động, cùng nhau làm thơ, viết
thơ về cụ Giáp. Tôi vui, buồn lẫn lộn, nhưng ông bạn nghiên cứu triết của tôi bảo,
thơ ca gì, đọc lên sao thấy nó giống như dàn kèn tụng ca vua chúa thời phong kiến
vậy… Và không hiểu sao, dạo này các bác hay đùa dai đến thế: Cứ bảo, cụ Giáp về
với dân. Về với dân có nghĩa là như các bậc tiền nhân, sau khi hoàn thành nhiệm
vụ, dám từ bỏ quyền lực, trở về ngôi nhà cũ của gia đình dòng họ và làm lại
đúng cái nghề gõ đầu trẻ của mình. Chứ ai lại về với dân, mà sau khi thắng giặc,
cụ ngự Villa to vật vã giữa lòng thủ đô. Không phải ai muốn gặp cụ cũng được.
Khi mất, lăng mộ cụ lại ngự nơi được cho có phong thủy đẹp, lưng là núi mặt tiền
là biển và dường như có cả lính túc trực ngày đêm? Vậy là xa dân, chứ làm sao
có thể nói, cụ gần dân, về với dân. Thôi thì, cụ cứ nằm chung với các đồng chí
của mình giữa thủ đô, có người chăm sóc luôn thể, có khi lại giản dị, đỡ tốn
kém hơn.
Vâng! Người có công với chế độ như cụ Giáp, được hưởng
thụ ở mức “đại Nhà Thờ, đại Tôn Đản“ là điều đương nhiên, khỏi bàn cãi. Nhưng
các bác cứ cố gò ép, cụ về với dân, quả thật nó vênh, tội và oan cho dân lắm.
Có lẽ, do quá yêu quí cụ, nên nhiều người, trong đó
có cả những nhà văn, trí thức cho rằng, cụ Giáp không vướng vào những sai lầm cải
cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm...v..v… Dù là người dốt về chánh trị,
cũng có thể nhận ra, chủ trương dẫn đến những sai lầm này, của cả bộ chính trị,
không phải chỉ có riêng các cụ Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hồ Viết Thắng
gánh chịu, mà phải tính từ cụ Hồ trở xuống. Cụ Giáp lúc đó là ủy viên bộ chính
trị, uy tín, tiếng tăm đang lẫy lừng, quyền hạn cao chót vót, nên không thoát
khỏi trách nhiệm này...” (đoạn trích trong bài
Sám Hối)
Và chúng ta hãy đọc lại bài Võ Nguyên
Giáp để thấy rõ bộ mặt thật đê hèn, mà bấy lâu nay tưởng
chừng cao đạo của giới chóp bu CS:
“Nhẫn nhục mưu việc lớn
Là việc rất đáng khen.
Nhẫn nhục để khỏi chết
Là thứ nhẫn nhục hèn.
*
-------------------------
Tôi không yêu, không ghét
Ông tướng cộng sản này.
Kính trọng cũng không nốt,
Vì ba điều sau đây.
Một, thua xa Trần Độ,
Đến trăm tuổi, mà rồi
Vẫn nghĩ cộng sản tốt,
Không hối hận, theo tôi,
Đó là sự mù quáng,
Là giáo điều nặng nề.
Riêng việc ấy cho thấy
Đầu óc có vấn đề.
Hai, người ta nhẫn nhục
Để phục quốc cứu người.
Ông thì hèn, chịu nhục
Để được sống hết đời.
Ba, tài năng quân sự.
Tôi không là chuyên gia.
Nghe đồn cái tài ấy
Là của người Trung Hoa.
Ông, như nhiều tướng khác,
Chiến tranh thì nhân dân,
Mà trận nào cũng thế,
Nổi tiếng nướng nhiều quân...”
Gần đây, nghe nói, Thái Bá Tân đã tìm đến
Phật Pháp. Và có lẽ, đó là nơi trú ngụ hồn ông lúc về chiều. Và
càng đi sâu vào Phật pháp mênh mông, dường như thơ của Thái Bá Tân đến
gần hơn với luật báo ứng, nhân quả. Dân Đại Bái Chơi Đẹplà
một bài thơ như vậy. Tuy chỉ là những thống kê qua lời kể, nhưng
những cái chết đó như một lời cảnh tỉnh, đầy lòng nhân ái của
người thi sĩ gửi đến những kẻ đang cỡi lên đầu, lên cổ người dân
lương thiện:
“...Nghe nói đâu tháng trước
Cả gia đình sáu người
Của một quan địa chính
Từng vang bóng một thời
Đã phải chết thảm khốc
Vì tai nạn giao thông.
Phải chăng là nhân quả?
Dẫu sao cũng đau lòng.
Lại nữa, một cán bộ
Cũng liên quan đất đai,
Đã bị dân chém chết
Đâu đó ở Gia Lai.
Chuyện như thế nhiều lắm.
Chuyện ân oán giang hồ.
Chắc quan tham cũng biết
Và chắc cũng đang lo.”
Đọc thơ ngũ ngôn Thái Bá Tân, cho tôi cảm giác
mỗi bài là một trang sử ký, mà ông đã cần mẫn ghi lại. Với tôi, đó
là những trang thơ, trang sách sống. Và tôi tin, dù còn phải sống
trong một xã hội mịt mù, u ám, cùng với nó, trái tim người nghệ sĩ
đích thực Thái Bá Tân vẫn sống cùng thời gian.
Leipzig ngày 4-9-2015
No comments:
Post a Comment