Văn Việt
17/08/2016
Văn
Việt: Một bạn đọc vừa chuyển cho Văn Việt đường link bài
viết sau đây nói về bài của tác giả Trịnh Y Thư trên Văn Việt. Chúng tôi xin
chia sẻ bài này cùng bạn đọc, để thêm một lần nhận diện thái độ đối xử với văn
học, với người cầm bút của giới “chính thống” Việt Nam hiện nay. Điều đáng nói
là cây bút viết bài này – văn phong bài viết là văn phong của một người khá
chuyên nghiệp trong giới văn chương – đã không dám ký tên thật, trong khi ngang
nhiên quy kết bài của Trịnh Y Thư là “cực kỳ phản động”. Về tính từ “phản động”,
chúng ta đã có quá nhiều kinh nghiệm. Đơn cử: tác phẩm “Về Kinh Bắc” của Hoàng
Cầm đã bị an ninh Việt Nam coi là “phản động”, dẫn đến vụ án nổi tiếng bắt giam
tác giả và người cầm bản thảo (nhà thơ Hoàng Hưng) người 18 tháng, người 39
tháng; sau “Đổi mới”, “Về Kinh Bắc” được in nhiều lần, tác giả được giải thưởng
Nhà nước, còn các vị tướng tá trong ngành an ninh đều giải thích một cách đơn
giản là “hồi đó ấu trĩ quá”! Là xong! Sự “ấu trĩ” chết ngưòi này còn tiếp tục đến
bao giờ?
---------------
(LĐ
online) – Ngày 11-8-2016, trên trang inweb văn chương “Văn
Việt.info” được coi là diễn đàn của Văn Đoàn Độc Lập Việt Nam lập bởi một nhóm
văn nghệ sĩ tự xưng “tổ chức xã hội dân sự hoàn toàn độc lập với mọi hệ thống tổ
chức và thiết chế trong, ngoài nước”, trong chuyên mục nghiên cứu phê bình đăng
bài “bốc thơm” và cũng cực kỳ phản động “Lưu Diệu Vân, Lưu Mêlan & Nhã
Thuyên: Vào cánh cổng của tưởng tượng”. Tác giả Trịnh Y Thư và được Thanh Hà
chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng Anh.
Theo Trịnh
Y Thư, ba tác giả: Lưu Diệu Vân, Lưu Mêlan & Nhã Thuyên được nhắc tới là
“ba nhà thơ nữ đang nổi, tên của họ đã trở nên ngày một thân quen hơn với công
chúng yêu thơ trong cũng như ngoài nước”, “mỗi người cư trú ở một nơi khác nhau
trên thế giới”, “ba nhà thơ đại diện cho một thế hệ các nhà văn Việt mới, được
gọi là thế hệ 8X”… Được phong “nhà thơ”, nhân thân Lưu Diệu Vân, Lưu Mêlan chưa
rõ nhưng danh tiếng Nhã Thuyên thì dư luận, công chúng văn chương trong nước ai
mà chẳng lạ bởi thành tích bất hảo. Hai năm trước, với luận văn “Vị trí kẻ bên
lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa”, Nhã Thuyên (Đỗ Thị
Thoan) đã bị đồng nghiệp nhà giáo, dư luận xã hội lên án gay gắt. Trong luận
văn – sản phẩm độc hại này, Nhã Thuyên cực đoan khi dựa vào tư liệu khảo sát là
những sản phẩm “thơ dơ, thơ rác, thơ nghĩa địa, giễu nhại (từ dùng của nhóm “Mở
miệng”)…” đầy rẫy ngôn từ tục tĩu, bẩn thỉu, lợm mửa… với một mớ hổ lốn về nội
dung, về thi pháp…. làm người đọc xấu hổ khi phải đọc nó, thành thứ tư tưởng
chính trị. Nhã Thuyên đã khái quát những cái thối tha, bẩn thỉu, tắc tị trong
thơ nhóm “Mở miệng” thành đỉnh cao văn hóa, văn nghệ Việt Nam; suy diễn những
thứ đó thành trào lưu tư tưởng chính trị. Tác giả luận văn cho đó “là sự phản
kháng” chế độ, rồi đi đến kết luận hồ đồ, “bệnh hoạn” cổ xúy cho khunh hướng
này: “chủ đề giải thiêng hình tượng Hồ Chí Minh, chống lại sự thống trị dai dẳng
của tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán chế độ cộng sản, bình luận và giễu nhại về
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Thơ bất đồng chính kiến đã tỏ rõ thái độ
trực diện trong quan hệ với quyền lực của thể chế, với nhu cầu phá hủy quyền lực
đó. Cộng sản được hiểu như một biểu tượng của sự khống chế tư tưởng và do đó nó
thành mục đích nhắm vào của thơ ca trong cuộc tấn công vào ý thức hệ chính thống
này”. Về cái luận văn phi khoa học, phản tiến bộ và gieo rắc “mầm loạn” cho xã
hội và đầy rẫy “rác rưởi” này, PGS.TS Phan Trọng Thưởng nhận định: “đây là một
luận văn “chính trị đội lốt văn chương” với rất nhiều quan điểm chính trị và học
thuật sai trái, mang tính chất kích động, đả phá chế độ, xúc phạm Chủ tịch Hồ
Chí Minh” .
Với
“chân dung đen” như vậy nên cũng không ngạc nhiên gì khi Trịnh Y Thư vội vã bập
túm lấy “con mồi” để “khuyên xằng” văn chương, không ngớt lời lăng-xê: “Lưu Diệu
Vân, Lưu Mêlan và Nhã Thuyên, đó là ba cái tên mà tôi phải tô đậm trong ghi chú
để tự nhắc mình phải chộp lấy ngay những tác phẩm mới nhất của họ”. Vì sao Trịnh
Y Thư “phải chộp lấy ngay”? Phải chăng xuất phát từ dã tâm chống phá chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay? Điều này quá rõ khi tác giả nhận thấy tập
thơ là “miếng mồi ngon” để thực hiện ý đồ đen tối của mình: “Tuyển tập này, có
thể được xem như là sự đoạn tuyệt dứt khoát với Chủ nghĩa hiện thực, Chủ nghĩa
lãng mạn, Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa yêu nước, Chủ nghĩa cảm thương, cũng như
vô số những thứ “chủ nghĩa” khác đã thống trị thơ Việt suốt một thời gian
dài”.
Không vội
bàn tới ba “nhà thơ” nữ kia có chạm đích thực vào “Cánh cổng của tưởng tượng”
hay không nhưng luận điệu của Trịnh Y Thư đã quá cuồng nhiệt “cổ súy” khuynh hướng
sáng tác “biểu đạt những cảm nhận sâu kín về bản thể, những nhận thức nhạy bén
về môi trường sống cũng như về thân phận riêng của mỗi cá nhân” mà quên đi vai
trò, trách nhiệm của nghệ sĩ – công dân, cố tình công kênh cái tôi lên trên quê
hương, đất nước. Tuy cho rằng: “Ở đây, thơ được viết chủ yếu vì chính thơ”, thế
nhưng phê bình thơ là cái cớ để Trịnh Y Thư thực hiện tâm ý đen tối chống phá
chủ nghĩa xã hội.
Nhà thơ
gắn bó với cuộc sống, hoà đồng quần chúng và phải hướng tứ thơ, hình ảnh thơ tới
“chân – thiện – mỹ”. Nhà thơ có quyền phản ánh cái tôi thế nhưng không thể là
cái tôi chật hẹp, đơn lẻ, riêng biệt mà nỗi niềm, thân phận của cá nhân phải
mang tính đại chúng, lớn lao hơn là tính thời cuộc, thời đại. Tác phẩm của họ
phải giàu tính tư tưởng, tính giáo dục, tính định hướng – có như vậy mới xứng
đáng với chức năng cao quý của văn nghệ sĩ là “hướng đạo” đời sống… Điều này
cũng là nguyên tắc đặt ra với nhà nghiên cứu phê bình văn học, song nó hoàn
toàn không có ở Trịnh Y Thư!.. Ngoài những câu chữ rối rắm, đánh tráo
khái niệm, cố tình khoe vốn liếng phê bình tạp nham và hổ lốn đề cao bản thể, tự
do cá nhân… , Trịnh Y Thư đã nhìn thấy những “hạt vàng” nào trong ba “nhà
thơ” được coi là “tài năng trẻ, như bộ ba tác giả của cuốn thơ này”?
Với Lưu
Diệu Vân, nhà phê bình không tiếc hơi thổi “bong bóng”: “sức hấp dẫn của thơ
Lưu Diệu Vân nằm ở cách sử dụng hình tượng tài hoa, tinh tế. Thực chất, có thể
nói nó đã lên đến mức điêu luyện (tour-de-force). Gần như ở bài thơ nào chúng
ta cũng có thể thấy một sức hấp dẫn tạo nên bởi cách lựa chọn ngôn từ độc đáo,
được xuất hiện đúng lúc đúng chỗ. Lời thơ gần giống như lời ca, nhưng lại như một
sự kết hợp lạ thường, trừu tượng, đưa đến một không khí huyền bí…”. Người phê
bình đã “tấm tắc” bởi cái gì? Với cái nhìn lệch lạc, bóp méo xã hội Việt Nam,
Trịnh Y Thư viết: “Trong bài thơ “khắt khe,” những gì mà cả một dân tộc đã tôn
thờ trong suốt hàng ngàn năm bị cô (Lưu Diệu Vân – NV) hạ bệ thành việc rắc “lốm
đốm những giọt máu hồng” làm vấy bẩn “mảnh khăn trắng” trinh nguyên. Thêm vào
đó, với bài thơ “gọi hồn triết gia,” cô công khai lên tiếng cho một cuộc chiến
chống lại hệ tư tưởng đã trấn áp người phụ nữ Việt trong suốt chiều dài lịch sử
đất nước mình. Cô đang phẫn nộ trước sự ngu dốt mà dường như chẳng một ai cho rằng
đáng quan tâm hay lưu ý”. Trịnh Y Thư còn ca ngợi Lưu Diệu Vân là “kẻ tiên
phong trên mặt trận chống lại sự phân biệt giới đã kéo dài hàng thế kỷ trên quê
hương mình”… Lưu lạc trời Tây, có thể như nhà phê bình kia nhận định “một Lưu
Diệu Vân đáng thương vẫn tự thấy mình không thể kết nối, bị cắt rời tuyệt đối
khỏi nguồn cội của chính mình” nhưng không thể chấp nhận những câu thơ áp đặt
méo mó về bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tốt đẹp mà Việt Nam 30
năm đổi mới phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Thơ đã lệch lạc, bệnh hoạn rồi nhưng kẻ bình thơ lại rất khẩu xà tung hứng:
“Khí chất cô bất hòa với vùng đất này, một nơi mà “trên tấm bích chương các
lãnh tụ bắt tay thân mật,” nơi những tên sát nhân ghê tởm không chút xấu hổ
“chúc tụng những chiến thắng không sách sử ghi nhận” (chỉ được xác nhận qua những
cuốn sách được viết bởi chính bọn hắn)”. Khích lệ tư tưởng, thái độ quay lưng
và hằn học với dân tộc chưa đủ, Trịnh Y Thư còn cổ súy cho sự học đòi “nổi loạn”,
a dua theo chủ nghĩa hiện sinh thứ cấp, đặc biệt là tính dục: “Dưới góc nhìn
riêng của nhà thơ, tự ý thức bao giờ cũng phải chạm đến phần tính dục như một
chủ đề trung tâm trong bản giao hưởng đời sống… Bài thơ “falls” mở đầu bằng những
hình ảnh đẹp đẽ ngây thơ như “những cánh hoa trong suốt nở những chiếc cánh mặt
trời nâu vàng”, và khép lại trong một cuộc truy hoan điên cuồng, nơi hành động
làm tình được đặc tả với những chi tiết cụ thể nhất “mực dương vật/ thân thể
nàng/ xuất tinh dấu vết”. Lẽ ra phải có thái độ phê phán, thế mà người phê bình
còn khen, thích thú trước những câu thơ phản văn hóa: “một bài thơ dị thường nhỏ
nhỏ như “tiếp thị sản phẩm mới” gây ấn tượng mạnh mẽ. Mỗi dòng thơ khiến tôi
không thể nén cười, nhất là khi đọc đến những câu như “Cửa mình của đàn bà/ Để
kiểm tra chất lượng”.
Không
hay Nhã Thuyên làm thơ có tiếng về chất lượng từ bao giờ ngoài chuyện cái luận
văn tai tiếng, phản văn hóa nhưng theo Trịnh Y Thư “Nếu Lưu Diệu Vân khám phá bản
ngã nội tại trong thế đối nghịch với phông cảnh môi trường mang tính thực tế của
cô, thì Nhã Thuyên tiến hành sự thăm dò ấy trong tương quan với một kiểu không
gian phi thực mênh mang của sự trống rỗng. Đôi mắt chẳng trông thấy gì ngoài
bóng tối, những giọng nói mất hút trong khoảng rỗng không giãn nở, chẳng để lại
gì dù chỉ một tiếng vọng. Trong bài thơ “thực đơn thân thể,” thực tại được miêu
tả như một khung cảnh mơ, ở nơi đó, “con đường như khúc cá khổng lồ bị chặt
ngang, hố hố ụ ụ đặc đen máu cá nham nhở”. Chính Trịnh Y Thư nhận xét thơ Nhã
Thuyên: “Một bầu khí quyển u sầu tràn lan tỏa khắp các dòng thơ, thấm đẫm linh
hồn của các chữ, tạo dựng một trạng huống tinh thần thảm sầu, bi thương. Ngay cả
trong mơ, cô cũng không thể nào trốn thoát được nỗi buồn, nó dường như đã bị
đóng đinh vĩnh viễn vào nỗi cô đơn bất tận. Bất luận thế nào, Nhã Thuyên cũng
không tìm kiếm một câu trả lời cuối kết”. “Cô đơn bất tận”
theo nghĩa đen – Đó là sự tất yếu của Nhã Thuyên – một trí thức, một nhà giáo cố
tình đi theo “lối của quỷ” mà không nhận ra “chính đạo”. Người viết bài này mượn
lời Trịnh Y Thư (hay cũng chính là cái “thòng lọng” của Trịnh Y Thư sẽ siết chặt
cổ các nhà thơ được y sử dụng như con bài chính trị) để tạm dừng đề cập về Nhã
Thuyên: “Nỗi tuyệt vọng được gọi tên rõ nét, cũng một màu u ám hệt như trong
“mưa đen”. Bài thơ kết lại bằng những dòng thơ “tôi lún sâu mãi xuống cát ướt,
cho tới khi hoàn toàn vắng lặng, và tôi sẽ không trở về”. Dưới dòng thơ ấy, nhà
thơ vẽ một vòng tròn. Có lẽ đó là hình ảnh tượng trưng cho một tình thế bị mắc
bẫy. Hoặc, rất có thể, là một cái thòng lọng? Dù hiểu theo nghĩa nào, nó cũng
chỉ gợi lên nỗi tuyệt vọng”.
“So
sánh với Lưu Diệu Vân, và đặc biệt là với Nhã Thuyên, kết cấu các văn bản thơ của
Lưu Mêlan có vẻ mỏng mảnh hơn. Không chỉ thế, về mặt ngữ nghĩa, nếu như thơ của
hai người bạn đồng hành kia thường mang tính đa tầng thì thơ cô thường đơn hướng”.
Đã nhận xét như vậy thì chúng ta cũng chẳng cần bận tâm nhiều về nhà thơ này mặc
dù Trịnh Y Thư cố nặn ra câu chữ đánh bóng: “Cô tiếp xúc với các đối tượng theo
nghĩa đen của nó, không cố công đi vào tâm hồn sự vật, thay vào đó, chủ yếu sử
dụng phông nền bối cảnh, phú cho nó một vài ý nghĩa điển hình, qua đó bày tỏ cảm
xúc. Trong bài thơ “Ngày,” cô đảm nhận vị trí một người quan sát rốt ráo, huy động
toàn bộ năm giác quan để khám phá môi trường sống quanh mình. Và rồi, giống như
thể một thiên thần canh gác, cô sẽ loan báo cho chúng ta lời cảnh cáo về những
mối hiểm nguy còn hiện tồn rõ mồn một trên thế gian. Một kịch bản tương tự cũng
được xây dựng trong bài thơ “Hạt gạo”. Ở đây, cô kể cho chúng ta nghe câu chuyện
cổ tích về một trong những vật phẩm được nâng niu nhất trong đời sống thường nhật
của người dân Việt – hạt gạo. Nhưng đó lại là một truyện cổ tích buồn. Kết lại
bài thơ, cô chỉ muốn được lẩn mình vào sau những thân cây lúa bởi “thế gian
đang chôn vùi đời sống con người”. Trước những cái được gọi là “thơ” hết sức rối
rắm, tắc tị, đầy rẫy định kiến và mặc cảm, Trịnh Y Thư cố tình đẩy nó lên đỉnh
của sự hận thù nhuốm màu phản động: “Lưu Mêlan đặt người đọc vào một cuộc trò
chuyện trực tiếp với tâm hồn cô, ngay cả khi nó đang chìm trong sự khiếp hãi
khi đối diện với thế giới hay trong nỗi hổ thẹn mà cô cảm thấy thay cho cái mảnh
đất cô vẫn gọi là quê nhà. Thế đấy, cũng như tất thảy chúng ta, cô lạc lối trên
chính quê hương mình, chẳng có chút gắn kết nào với “những người đi bằng bốn
chân”. Nhiều bài thơ của Lưu Mêlan biểu thị một nỗi tuyệt vọng và sự khóc
thương cho một nơi chốn vốn được định danh là nơi chôn rau cắt rốn của cô, đất
nước dấu yêu của cô”.
Hỡi các
“nhà thơ” đang ở độ tuổi hai mươi đến ba mươi! Đường đời của các cô còn dài lắm
và trên con đường ấy cũng không thiếu chông gai, rắn rết mà sự trải nghiệm bản
thân thì e rằng chưa đủ độ chín để “chợt vụt sáng như sao” nên chăng phải hết sức
cảnh giác trước “lưỡi không xương nhiều đường lắt léo” tẩm đầy chất độc như của
Trịnh Y Thư: “Nhờ sự tài hoa của ba nhà thơ trẻ, cuốn sách này, mặc dù không đồ
sộ về vẻ hình thức bên ngoài, nhưng đã tạo được một cú huých nhất định đến sự
phát triển theo chiều hướng tiến hóa của thơ Việt đương đại, không những thế,
có thể đảm nhận vai trò như một dẫn nhập thông minh cho những ai quan tâm đến
văn học Việt Nam”… Ba hoa rồi Trịnh Y Thư cũng “lòi đuôi cáo” bản chất xuyên tạc,
kích động hằn thù, chống phá Nhà nước Việt Nam với luận điệu: “đối diện với hiện
tại, chứng kiến con đường mà đất nước đang đi, chứng kiến sự tha hóa về đạo đức,
sự thối rữa mục nát của các hệ thống chính trị, tình trạng mất tự do cá nhân, sự
rỗng tuếch trên lĩnh vực tri thức, tính ì trệ kìm hãm sự tiến bộ và ngăn chặn
những ý tưởng mới (kể đến đây dường như đã là quá đủ), cả ba người đều đang quyết
liệt định hình tiếng nói của mình trong tư cách là những nhà thơ”.
Với những
“con nai tơ” thiển kiến, u minh khi nhìn nhận về thể chế chính trị, công cuộc đổi
mới tốt đẹp của dân tộc mặt khác lại háo danh, ngộ nhận và hoang tưởng về tài
năng thi phú – họ chỉ là kẻ “nhắm mắt, hiến tế” dâng mình cho quỷ dữ, làm công
cụ trong tay của những kẻ xảo trá, thù địch với dân tộc Việt như Trịnh Y Thư.
ĐÀ
VĂN
-----------------------------------
TÀI LIỆU :
đôi
dòng về trịnh y thư
bài
đã đăng của trịnh y thư
- lưu diệu vân, lưu mêlan & nhã thuyên: into the gate of imagination - 29.04.2016
- kẻ tà đạo* - 16.03.2016
- lời từ biệt - 05.10.2015
- nguyễn xuân hoàng: kỉ niệm và bằng hữu - 22.08.2013
- nguyễn mộng giác: món nợ văn chương - 04.10.2012
- buổi sáng hồi tỉnh trong lúc mưa - 15.07.2011
- nhạc mục lê văn khoa - 12.05.2011
- lê văn khoa: tiếng ru từ đất mẹ - 09.05.2011
- những phiến lá từ tâm - 22.04.2011
- thương nhớ cao xuân huy - 13.11.2010
- phụ nữ và sáng tác văn học - 14.11.2009
- người đàn bà khác - 21.07.2009
- chuyện tình của bruce [2/2] - 23.06.2009
- chuyện tình của bruce [1/2] - 22.06.2009
- đôi điều về dịch thuật - 10.12.2008
- the landscape of forgetting/miền lãng quên - 30.06.2007
- a shadow in the sky/ bóng mây trên trời - 31.05.2007
- spring in san juan capistrano - 20.01.2007
- ngày tôi về làng - 30.12.2006
- ngôi nhà thờ trắng - 04.11.2006
Trịnh Y Thư WordPress.com site
No comments:
Post a Comment