20
APR 2016
Phát
hiện: Làm cách nào mà một nhánh nhỏ của ngành khoa học chính trị bất ngờ trở
thành một trong những nhánh nghiên cứu quan trọng nhất về chính trị Mỹ?
Quà lưu niệm ủng hộ
Donald Trump trong ngày diễn ra buổi bầu cử của Đảng Cộng Hòa tại Iowa. Ảnh:
Brendan Hoffman/Getty Images
Các
nghiên cứu về khuynh hướng chuyên chế bắt đầu không lâu sau Thế chiến thứ 2.
Các nhà khoa học chính trị và tâm lý học tại Mỹ và Châu Âu đã cố gắng tìm ra
cách mà các nhóm Phát xít đã lấy được sự ủng hộ lớn từ công chúng giành cho tư
tưởng quá khích đầy thù ghét của bọn họ.
Đây
là một nhánh nghiên cứu cần thiết, nhưng các nghiên cứu ban đầu không đạt được
các tiêu chuẩn khắt khe của nghiên cứu hiện đại. Một ví dụ là bảng câu hỏi đo
lường độ F (F-scale) của lý thuyết gia Theodor Adorno dùng để đo lường khuynh
hướng ‘Phát xít’. Công cụ này không chính xác. Người thông minh khi trả lời câu
hỏi có thể nhanh chóng tìm ra những câu trả lời được cho là ‘đúng’ và theo đó
hoàn toàn làm sai lệch các đo lường của bảng câu hỏi này. Cũng không có bằng chứng
cho thấy mẫu tính cách mà bảng câu hỏi F-scale xác định thật sự ủng hộ chủ
nghĩa Phát xít.
Hơn
thế nữa, có vẻ các nghiên cứu ban đầu này đặt giả định là một nhóm người nhất định
về bản chất đã là độc ác hoặc nguy hiểm – một ý tưởng mà Hetherington và Weiler
cho là quá đơn giản và sai trái. Cả hai đều tránh đặt giả định này trong nghiên
cứu của họ. (Họ cũng nhận rằng việc đặt tên “những người theo khuynh hướng
chuyên chế” tự nó cũng không ổn thỏa, nhưng họ không thể tìm ra từ nào nghe
xuôi tai hơn.)
Nếu
sự trỗi dậy của khuynh hướng chuyên chế Mỹ mạnh tới mức đẩy Trump tiến xa đến
thế, nó còn có thể ảnh hưởng đến chính trị Mỹ như thế nào nữa?
Nhưng
vấn đề thật sự với các nhà nghiên cứu là cho dù thật sự có tồn tại một trạng
thái tâm lý là trạng thái theo khuynh hướng chuyên chế thì làm cách nào để có
thể đo lường được nó? Làm cách nào để phát hiện khuynh hướng chuyên chế vốn
có thể được giấu kín? Làm cách nào để có được những câu trả lời trung thực
cho các câu hỏi nghiên cứu tâm lý khi bản thân các câu hỏi này có thể nhạy cảm
và mang tính chính trị cao?
Hetherington
giải thích với tôi, “Có những thứ bạn không thể hỏi người ta trực diện. Bạn
không thể hỏi người ta, ‘Anh có thích người da đen không?’ Bạn không thể hỏi
người ta có phải kẻ cuồng tín không.”
Trong
một khoảng thời gian dài không ai tìm ra giải pháp cho những vấn đề nói trên,
và nhánh nghiên cứu này bị ngưng trệ.
Thế
rồi vào những năm 90, một nhà khoa học chính trị là Stanley Feldman thay đổi mọi
thứ. Feldman, giáo sư của Trường Đại học Stonybrook tại New York, tin rằng
khuynh hướng chuyên chế có thể là một yếu tố quan trọng trong chính trị Mỹ theo
những cách chẳng dây mơ rễ má gì đến chủ nghĩa Phát xít. Feldman tin rằng có thể
đo lường khuynh hướng chuyên chế một cách đáng tin cậy bằng cách cắt đứt các
liên kết với một số khuynh hướng chính trị riêng biệt nào đó.
Ông
nhận ra rằng nếu khuynh hướng chuyên chế có thể được đo lường như một khuynh hướng
tâm lý thay vì là một khuynh hướng chính trị thì có thể dễ dàng khiến người trả
lời câu hỏi khảo sát để lộ các khuynh hướng của họ hơn. Feldman làm việc này bằng
cách đặt câu hỏi theo hướng các đề tài ít gây tranh cãi hơn. Cuối cùng ông chọn
một đề tài có vẻ tầm thường đến buồn cười: mục tiêu giáo dục con trẻ.
Theo
đó, Feldman phát triển một công cụ đo lường khuynh hướng chuyên chế được chấp
nhận rộng rãi đến bây giờ: bốn câu hỏi đơn giản trông có vẻ là hỏi về việc giáo
dục con cái nhưng thực tế được thiết kế để phát hiện xem người trả lời đánh giá
cao tới mức nào các giá trị như tôn ti, trật tự và sự phục tùng so với các giá
trị khác.
1.
Làm ơn cho biết bạn nghĩ điều gì quan trọng mà một đứa trẻ
phải có hơn: sự tự lập hay lòng kính trọng cho người lớn tuổi?
2.
Làm ơn cho biết bạn nghĩ điều gì quan trọng mà một đứa trẻ
phải có hơn: sự tuân lệnh hay sự tự chủ?
3.
Làm ơn cho biết bạn nghĩ điều gì quan trọng mà một đứa trẻ
phải có hơn: sự quan tâm hay sự ngoan ngoãn?
4.
Làm ơn cho biết bạn nghĩ điều gì quan trọng mà một đứa trẻ
phải có hơn: sự tò mò hay sự lịch sự?
Phép
thử này của Feldman đã cho thấy một sự đáng tin cậy lớn. Như vậy là bây giờ các
nhà nghiên cứu có trong tay một công cụ để xác định những người có tâm lý theo
khuynh hướng chuyên chế. Những người như thế thường xem trọng trật tự và sự phục
tùng và khao khát việc áp đặt các giá trị này.
Năm
1992, Feldman thuyết phục được Dự án Nghiên cứu Bầu cử Quốc gia (National
Election Study) – một dự án lớn nghiên cứu cử tri Mỹ được thực hiện vào mỗi năm
có bầu cử – để dự án này sử dụng bốn câu hỏi về khuynh hướng chuyên chế của
ông. Từ khi đó, các nhà khoa học chính trị nghiên cứu khuynh hướng chuyên chế
đã tập hợp được một lượng lớn dữ liệu về những người thể hiện khuynh hướng
chuyên chế và theo đó là chi tiết nhân khẩu học và các khuynh hướng chính sách
của họ.
Những
gì các nhà khoa học này tìm ra không thể bị phớt lờ – và nó mới chỉ là bước đầu
trong việc hình thành nhận thức của chúng ta về giới cử tri Mỹ.
III.
Khuynh hướng chuyên chế hoạt động trong thực tế như thế nào?
Một cuộc biểu tình chống
tổng thống Obama vào năm 2010. Ảnh: Justin Sullivan/Getty Images
Trong
những năm đầu thế kỷ 21, các nhà nghiên cứu bắt đầu sử dụng dữ liệu từ các
nghiên cứu bầu cử quốc gia để tìm hiểu cách mà khuynh hướng chuyên chế tác động
lên chính trị Mỹ. Họ phát hiện ra ba phát kiến giúp giải thích không chỉ ‘cơn sốt’
Donald Trump mà còn cả các nguồn động lực trong chính trị Mỹ hơn nửa thế kỷ
qua.
Phát
kiến đầu tiên là của Hetherington và Weiler về sự phân cực đảng phái (partisan
polarization). Trong những năm 60 của thế kỷ trước, Đảng Cộng Hòa đã tự làm mới
bằng cách quảng bá bản thân họ như là đảng của luật pháp, trật tự và các giá trị
truyền thống – một vị trí rất có sức hút với các cử tri theo khuynh hướng
chuyên chế vốn quan tâm đến trật tự và truyền thống. Trong vài thập niên sau
đó, những người theo khuynh hướng chuyên chế ngày càng ngả theo Đảng Cộng Hòa
và sự tập trung số đông của họ dần mang lại ảnh hưởng cho họ theo thời gian.
Phát
kiến thứ hai là lý thuyết của Stenner về “sự kích hoạt”. Trong một cuốn sách rất
có ảnh hưởng xuất bản năm 2005 là ‘Động Lực Chuyên Chính’ (The Authoritarian
Dynamic), Stenner tranh luận là nhiều người theo khuynh hướng chuyên chế theo dạng
kín – họ không nhất thiết ủng hộ các lãnh đạo theo khuynh hướng chuyên chế hoặc
các chính sách chuyên chế, cho đến khi khuynh hướng chuyên chế bên trong bản
thân họ được ‘kích hoạt’.
Lý
thuyết về mối đe dọa xã hội giúp giải thích tại sao những người theo khuynh hướng
chuyên chế có vẻ không chấp nhận không chỉ một dạng ‘người ngoài’ (outsider) nhất
định, hay một biến đổi xã hội nhất định nào, ví dụ như người Hồi giáo hay các cặp
đôi đồng tính hay người nhập cư gốc Mỹ La Tinh, mà họ thường không chấp nhận
toàn bộ các nhóm ‘người ngoài’ và toàn bộ các biến đổi xã hội.
Sự
kích hoạt có thể đến từ việc cảm thấy bị đe dọa bởi các biến đổi xã hội, ví dụ
như sự thay đổi các chuẩn mực xã hội và sự đa dạng chủng tộc ngay càng tăng,
hay bất kỳ thay đổi nào mà họ tin là sẽ thay đổi sâu sắc trật tự xã hội mà họ
muốn bảo vệ. Đáp trả các biến đổi xã hội này, những cá nhân trước nay ôn
hòa có thể bỗng quay sang ủng hộ các lãnh đạo và các chính sách mà chúng ta có
thể gọi nôm na là theo kiểu Trump (Trump-esque).
Các
nhà nghiên cứu khác như Hetherington thì có một cái nhìn tương đối khác. Họ tin
rằng những người theo khuynh hướng chuyên chế không hề được “kích hoạt” – họ đã
luôn có sẵn những khuynh hướng chuyên chế của mình – nhưng họ chỉ thể hiện các
khuynh hướng này khi họ cảm thấy bị đe dọa bởi các biến đổi xã hội hay một dạng
đe dọa nào đó từ những ‘người ngoài’.
Nhưng
cả hai luồng tư tưởng nói trên đều đồng ý về nguyên nhân cơ bản của khuynh hướng
chuyên chế. Người ta thường không ủng hộ các chính sách quá khích và các
lãnh đạo mạnh bạo đơn giản chỉ vì người ta muốn khẳng định khao khát chuyên chế
của mình, mà thường là vì việc ủng hộ các chính sách và các lãnh đạo như thế là
cách người ta đáp lại khi người ta cảm thấy sự hiện diện của một số mối đe dọa
nhất định.
Phát
kiến thứ ba là từ Hetherington và Elizabeth Suhay, giáo sư Trường Đại học
American. Hetherington và Suhay tìm ra là ngay cả những người không theo khuynh
hướng chuyên chế khi cảm thấy thật sự sợ hãi cũng bất đầu cư xử, về mặt chính
trị, như những người theo khuynh hướng chuyên chế.
Nhưng
Hetherington và Suhay cũng tìm ra một sự phân biệt giữa các mối đe dọa thể xác
như chủ nghĩa khủng bố, vốn có thể làm những người không theo khuynh hướng
chuyên chế cư xử như những người theo khuynh hướng chuyên chế, và những mối đe
dọa xã hội trừu tượng hơn, ví dụ như sự bào mòn các tiêu chuẩn xã hội hay thay
đổi nhân khẩu học, vốn không có ảnh hưởng tương tự như các mối đe dọa thể xác.
Sự phân biệt đó khá quan trọng, nhưng nó cũng có ý nghĩa là trong những giai đoạn
mà nhiều người Mỹ cảm thấy các mối đe dọa thể xác thường trực, số người theo
khuynh hướng chuyên chế có vẻ sẽ tăng rất nhanh.
Cùng
với nhau, cả ba phát kiến nói trên họp lại thành một lý thuyết đáng sợ: nếu như
các biến đổi xã hội và các mối đe dọa thể xác cùng xuất hiện, chúng có thể đánh
thức một số lượng có thể là rất lớn những người theo khuynh hướng chuyên chế tại
Mỹ. Những người theo khuynh hướng chuyên chế này theo đó sẽ đòi hỏi những lãnh
đạo mạnh bạo và các chính sách quá khích mà họ cho là cần thiết để đáp lại các
mối đe dọa đang dâng cao.
Lý
thuyết này có vẻ là đã tiên đoán trước sự trỗi dậy của một nhóm cử tri tại Mỹ
có vẻ rất giống nhóm cử tri đang ủng hộ Donald Trump vốn có vẻ… từ dưới đất
chui lên. Nhóm này đã giúp Donald Trump biến từ một kẻ thất bại mang tính giải
trí trong cuộc bầu cử năm 2012 thành ứng cử viên hàng đầu năm 2016.
Không
chỉ mang tính tiên tri một cách đáng ngại như thế, lý thuyết này còn chỉ ra một
mối lo ngại đã được nhắc đến nhiều về Trump: thứ đáng sợ nhất không phải là bản
thân vị ứng cử viên này mà chính là tầm và tâm của những người ủng hộ ông ta.
Lý
thuyết này cũng đặt ra câu hỏi: Nếu sự trỗi dậy lần này của khuynh hướng chuyên
chế tại Mỹ mạnh tới mức đẩy Trump lên cao đến thế, thì sự trỗi dậy này còn có
thể thay đổi chính trị Mỹ như thế nào nữa? Có thể có những ảnh hưởng khác
sau khi cuộc bầu cử năm 2016 kết thúc chăng?
(Còn
tiếp)
*
*
22
APR 2016
Khuynh
hướng chuyên chế có thể giải thích gì?
Ảnh: Mark
Wallheiser/Getty Images
Vào
đầu tháng 2, ít lâu trước khi Trump về nhì trong các cuộc bầu cử hội nghị Đảng
Cộng Hòa tại bang Iowa và chấm dứt mọi nghi ngờ về những ủng hộ dành cho ông
ta, tôi bắt đầu liên lạc với Feldman, Hetherington và MacWilliams để tìm cách
trả lời các câu hỏi nói trên.
MacWilliams
đã chứng minh được là có một sự liên kết giữa khuynh hướng chuyên chế và những ủng
hộ dành cho Trump. Nhưng chúng tôi muốn biết bằng cách nào khác mà khuynh hướng
chuyên chế có thể ảnh hưởng đến chính trị Mỹ, từ quan điểm chính sách đến chính
trị đảng phái đến các vấn để xã hội, và khuynh hướng này có ý nghĩa với tương
lai Hoa Kỳ như thế nào.
Đó
là lúc chúng tôi gọi cho Kyle Dropp. Dropp là một nhà khoa học chính trị
và một chuyên gia thăm dò ý kiến cử tri. Một đồng nghiệp của tôi mô tả Dropp là
“Doogie Howser” của ngành thăm dò ý kiến cử tri. Trông anh ta đúng là có vẻ
quá trẻ để làm giáo sư tại Đại học Dartmouth. Nhưng anh đồng thời cũng là một
trong những người sáng lập công ty truyền thông và thăm dò ý kiến cử tri
Morning Consult. Công ty này đã làm việc với trang tin Vox trong nhiều dự án.
Khi
chúng tôi liên lạc với Morning Consult, Dropp và các đồng nghiệp của anh tỏ ra
rất thích thú. Dropp có biết về các nghiên cứu của Hetherington và về việc đo
lường khuynh hướng chuyên chế. Dropp nói rằng anh rất tò mò muốn thử nghiệm xem
các lý thuyết này có ý nghĩa thực tế với cuộc bầu cử hiện nay ra sao.
Hetherington và các nhà khoa học chính trị khác cũng rất nóng lòng muốn tìm hiểu
thêm về các lý thuyết vốn đang bất ngờ ngày càng được quan tâm này.
Ngay
cả những người không theo khuynh hướng chuyên chế khi cảm thấy thật sự sợ hãi
trước các hiểm họa như khủng bố thì về cơ bản họ sẽ vì sợ mà cư xử như những
người theo khuynh hướng chuyên chế.
Chúng
tôi tập hợp năm nhóm câu hỏi khác nhau. Nhóm đầu tiên dĩ nhiên là phép thử
khuynh hướng chuyên chế mà Feldman đã phát triển. Phép thử này sẽ giúp chúng
tôi đo lường xem khuynh hướng chuyên chế có trùng khớp với các biến số từ các
nhóm câu hỏi còn lại không.
Nhóm
câu hỏi thứ hai hỏi các câu hỏi thông thường của mùa bầu cử về ứng cử viên ưa
thích hay đảng phái chính trị.
Nhóm
câu hỏi thứ ba tìm hiểu mức độ sợ hãi của cử tri với các một loạt các mối đe dọa
thể xác, từ ISIS đến Nga đến vi-rút đến tai nạn xe hơi.
Nhóm
câu hỏi thứ tư tìm hiểu các khuynh hướng chính sách, để xem thử xem khuynh hướng
chuyên chế có khiến cử tri ủng hộ một số chính sách nhất định không.
Nếu
các nghiên cứu lý thuyết là đúng thì kết quả sẽ cho thấy những người được đánh
giá là có khuynh hướng chuyên chế nhất sẽ thể hiện những nỗi sợ hãi lớn về các
mối đe dọa từ ‘người ngoài’ như ISIS hay các chính phủ ngoại quốc hơn hẳn các nỗi
sợ hãi khác. Chúng tôi cũng tiên đoán là những người không có khuynh hướng
chuyên chế nhưng thể hiện một mức độ sợ hãi cao thì cũng nhiều khả năng sẽ ủng
hộ Trump hơn. Điều này sẽ cho thấy các nỗi sợ hãi thể xác có khả năng dẫn đến sự
bột phát khuynh hướng chuyên chế, kéo theo nó là việc ủng hộ Trump.
Chúng
tôi muốn tìm hiểu vai trò của những người theo khuynh hướng chuyên chế trong cuộc
bầu cử này
Nhóm
câu hỏi cuối cùng có mục đích định lượng nỗi sợ hãi các biến đổi xã hội. Chúng
tôi hỏi cử tri đánh giá một loạt các biến đổi xã hội – cả thật và giả tưởng –
theo mức độ từ “rất tốt” tới “rất tệ” cho đất nước. Một số các thay đổi được nhắc
đến có hôn nhân đồng giới, việc có một con đường đến quyền công dân cho người
nhập cư trái phép tại Mỹ, việc người Hồi giáo Mỹ xây nhiều giáo đường tại các
thành phố trong nước.
Nếu
như thực tế đúng theo lý thuyết là các biến đổi xã hội gây căng thẳng cho những
người theo khuynh hướng chuyên chế, nhiều khả năng họ sẽ đánh giá các biến đổi
xã hội là tệ cho đất nước.
Chung
quy là chúng tôi mong đợi một số thứ từ những thăm dò này. Chúng tôi muốn hiểu
những người theo khuynh hướng chuyên chế là ai, theo ngôn ngữ nhân khẩu học, và
chúng tôi muốn thử nghiệm một số giả thiết cơ bản về cách mà khuynh hướng
chuyên chế, trên lý thuyết, thường được vận hành. Chúng tôi muốn nhìn vào vai
trò của những người theo khuynh hướng chuyên chế với việc bầu cử: Chẳng hạn như
phải chăng họ đang tác động lên các quan điểm chính sách ?
Chúng
tôi muốn hiểu rõ hơn các yếu tố ảnh hưởng lớn vốn đã khiến cho lực lượng những
người có khuynh hướng chuyên chế trở nên ngày càng đông đảo và quá khích – những
yếu tố đó có bao gồm việc nhập cư, chủ nghĩa khủng bố và có thể có cả sự xuống
cấp của tầng lớp lao động da trắng? Và có lẽ là quan trọng nhất, chúng tôi muốn
phát triển một số lý thuyết về ý nghĩa của sự trỗi dậy của khuynh hướng chuyên
chế ở Mỹ đối với tương lai của sự phân cực giữa các đảng chính trị, cũng như đối
với việc Đảng Cộng Hoà đang ngày càng trở nên quá khích và chia rẽ nội bộ.
Khoảng
10 ngày sau, ít lâu trước khi Trump thắng cuộc tuyển cử sơ bộ tại bang New
Hampshire, các bảng thăm dò ý kiến bắt đầu được gửi. Không đầy hai tuần sau đó
chúng tôi có kết quả.
Đảng
Cộng Hoà đã trở thành đảng của những người có khuynh hướng chuyên chế như thế
nào?
Ảnh: Tom
Pennington/Getty Images
Điều
đầu tiên nổi bật từ dữ liệu về những người có khuynh hướng chuyên chế là họ
đông đảo như thế nào. Kết quả thăm dò của chúng tôi cho thấy 44% trong số những
người da trắng trả lời câu hỏi được đánh giá là có khuynh hướng chuyên chế
“cao” hoặc “rất cao”, 19% được tính là có khuynh hướng “rất cao”. Những con số
này không gây bất ngờ lắm và chúng khớp với những thăm dò xuyên quốc gia trước
đây, vốn xác định khuynh hướng chuyên chế không phải là hiếm[1].
Yếu
tố then chốt phải hiểu là khuynh hướng chuyên chế thường khá kín đáo; những cá
nhân trong nhóm 44% nói trên chỉ bỏ phiếu và theo các cách cư xử khác như những
người theo khuynh hướng chuyên chế khi họ bị kích động bởi các mối đe dọa, dù
là mang tính vật lý hay mang tính xã hội. Nhưng chính sự kín đáo đó trong các
thập niên qua đã giúp cho những người có khuynh hướng chuyên chế trở thành một
nhóm cử tri mạnh mẽ mà ít ai nhận ra sự lớn mạnh của họ.
Ngày
nay, theo các khảo sát của chúng tôi, những người có khuynh hướng chuyên chế phần
lớn là người theo Đảng Cộng Hoà. Hơn 65% số người được đánh giá là có khuynh hướng
chuyên chế nhất là những cử tri Đảng Cộng Hoà. Hơn 55% những người theo Đảng Cộng
Hoà được khảo sát được đánh giá là có khuynh hướng chuyên chế “cao” hoặc “rất
cao”.
Bên
đầu bên kia, mọi thứ diễn ra ngược lại. Trong số những người ghi nhiều điểm số
cho thấy họ có khuynh hướng ít chuyên chế nhất – có nghĩa là họ chọn những câu
trả lời về việc dạy con cái theo hướng không chuyên chế – có đến 75% là người
theo Đảng Dân Chủ. Nhưng điều này trước đây không phải lúc nào cũng vậy. Theo
các nghiên cứu của Hetherington và Weiler, mấu chốt không phải là ở việc những
người theo Đảng Cộng Hoà khác những người theo Đảng Dân Chủ như người sao Hoả
khác người sao Thuỷ như thế nào. Mấu chốt chính là ở việc sự phân cực hoá giữa
hai đảng này đã tăng dần theo thời gian.
Hetherington
và Weiler sử dụng cả dữ liệu từ những năm 60 của thế kỷ trước, khi Đảng Cộng
Hoà thay đổi chiến lược tranh cử để lấy sự ủng hộ của những người theo Đảng Dân
Chủ ở miền Nam. Khi đó Đảng Cộng Hoà đánh vào nỗi sợ hãi những thay đổi chuẩn mực
xã hội – ví dụ như việc các cuộc cách mạng dân quyền góp phần xoá bỏ phân chia
thứ bậc dựa trên màu da. Đảng Cộng Hoà cũng áp dụng một cương lĩnh nhấn mạnh
“luật và trật tự” gây sức hút với các cử tri da trắng vốn đang lo lắng về các
cuộc bạo loạn sắc tộc.
Các
thay đổi chiến lược này đặt Đảng Cộng Hoà vào vị trí là đảng của các giá trị và
cấu trúc xã hội truyển thống – một vị trí mà họ giữ tới ngày nay. Những lời hứa
của Đảng Cộng Hoà, về việc ngăn cản các biến đổi xã hội và nếu cần thiết thì áp
đặt trật tự, đã có sức thuyết phục rất lớn đối với những cử tri có khuynh hướng
chuyên chế.
Đảng
Dân Chủ, trái lại, đã chọn vị trí là đảng của dân quyền, công bằng và xã hội cấp
tiến – nói cách khác, họ là đảng của sự biến đổi xã hội. Vị trí này của Đảng
Dân Chủ không chỉ không thể thu hút được những người theo khuynh hướng chuyên
chế vốn không thích thay đổi mà còn tích cực làm những người này ghét Đảng Dân
Chủ.
Hetherington
giải thích với tôi là việc này trải qua nhiều thập kỷ đã khiến các nhóm người
có khuynh hướng chuyên chế tập trung vào trong Đảng Cộng Hoà.
Việc
này có ý nghĩa quan trọng vì càng có nhiều người theo khuynh hướng chuyên chế
trong nội bộ Đảng Cộng Hoà thì những người có khuynh hướng chuyên chế này càng
có nhiều ảnh hưởng lên chính sách và việc chọn ứng cử viên của đảng này. Không
phải khi không mà các thăm dò ý kiến của chúng tôi cho thấy hơn một nửa những
người trả lời thăm dò là thành viên Đảng Cộng Hoà đều là những người theo
khuynh hướng chuyên chế.
Điều
khác có lẽ quan trọng hơn chính là ở chỗ Đảng Cộng Hoà ngày càng khó mà có thể
phớt lờ những lựa chọn bầu cử của nhóm người có khuynh hướng chuyên chế – ngay
cả khi những lựa chọn bầu cử của nhóm này xung khắc với lựa chọn bầu cử của những
nhóm cốt cán truyền thống trong đảng.
[1] Phân tích dữ liệu
của Vox chỉ phản ánh cử tri người da trắng bởi vì tính chính xác của việc dùng
các câu hỏi về nuôi dậy con cái để định lượng khuynh hướng chuyên chế không rõ
ràng lắm trong trường hợp các phụ huynh người da màu. Tuy nhiên, bởi vì bản
thân phần đông các cử tri của Đảng Cộng Hoà đã sẵn là người da trắng, việc giới
hạn mẫu đại diện này của chúng tôi ít khả năng làm giảm tính chính xác của dữ
liệu từ cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Cộng Hoà.
Còn
tiếp
No comments:
Post a Comment