Bill Hayton - Asia Sentinel 25-5-15
Bản dịch của Phan Văn Song
(Các chú thích do chính tác giả gửi riêng cho người
dịch)
03/06/2015
Cái nhìn rạch ròi của một chuyên gia và tác giả nổi
tiếng về yêu sách biển của Trung Quốc.
Chỉ trong vài tuần nữa, các
thẩm phán quốc tế sẽ bắt đầu xem xét tính hợp pháp của yêu sách ‘đường chữ U’ của
Trung Quốc (Trung Quốc) ở Biển Đông. Nơi diễn ra sẽ là Toà Trọng tài thường trực
tại The Hague và bước đầu tiên của tòa - trong thời gian nghị án vào tháng 7 -
sẽ là xét xem liệu ngay cả toà [có quyền] xem xét vụ kiện này hay
không.
Điều Trung Quốc hi vọng lớn
nhất là các thẩm phán sẽ phán quyết chính họ không có thẩm quyền bởi vì nếu
không, và vụ kiện của Philippines tiến tới, rất có khả năng Trung Quốc sẽ bị
bẽ mặt rất lớn.
Philippines muốn Tòa phán
quyết rằng, theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS), Trung Quốc chỉ
có thể yêu sách chủ quyền và quyền đối với tài nguyên cách lãnh thổ đất liền
một khoảng cách nhất định trong biển này. Nếu tòa đồng ý thì điều đó sẽ có
tác dụng thu hẹp ‘đường chữ U’ to rộng đó thành một vài vòng tròn có đường kính
không quá 24 hải lý (khoảng 50km).
Trung Quốc không chính thức
tham gia vào vụ kiện, nhưng họ đã đưa ra các tranh luận gián tiếp, đặc biệt
là qua ‘văn bản về lập trường’ mà họ công bố cuối tháng 12. Văn bản này
lập luận rằng khi chưa có phán quyết của một tòa án khác cho tất cả các yêu
sách lãnh thổ cạnh tranh đối với các đảo, đá và rạn san hô khác nhau thì tòa
này không nên xét xử vụ kiện của Philippines. Đây là vấn đề mà các thẩm
phán sẽ phải xem xét trước tiên.
Chiến lược của Trung Quốc
trong ‘cuộc chiến pháp lý’ trên Biển Đông là tung ra các lập luận lịch sử
để đánh tạt đi các lập luận dựa trên UNCLOS. Trung Quốc ngày càng có vẻ coi
UNCLOS không phải là một phương tiện trung tính trong việc giải quyết các tranh
chấp mà là một vũ khí phe phái do các nuớc khác nắm lấy để từ chối các
quyền tự nhiên của Trung Quốc.
Nhưng có một vấn đề lớn đối
với Trung Quốc trong việc sử dụng lập luận lịch sử. Hầu như họ không có bất kỳ
bằng chứng nào.
Đây không phải là ấn tượng
mà người đọc bình thường thu được khi đọc hầu hết các bài báo hoặc các báo
cáo của các nhóm chuyên gia (think-tank) viết về tranh chấp Biển Đông trong
những năm gần đây. Đó là vì hầu như tất cả các bài báo và báo cáo này đều có
căn cứ lịch sử dưa trên một số lượng rất nhỏ các bài viết và sách. Đáng
lo ngại là việc kiểm tra chi tiết những công trình này gợi ra rằng họ sử dụng
các căn cứ không đáng tin cậy để từ đó viết ra những chuyện lịch sử [đuợc
cho là] đáng tin cậy.
Đây là một trở ngại đáng kể
trong việc giải quyết tranh chấp vì việc Trung Quốc đọc nhầm các bằng chứng
lịch sử là yếu tố gây bất ổn lớn nhất trong đợt căng thẳng hiện nay. Sau nhiều
thập niên giáo dục sai, người dân và lãnh đạo Trung Quốc dường như tin rằng
Trung Quốc là chủ sở hữu hợp lẽ tất cả các thể địa lý trong biển này – và có
thể tất cả các vùng biển ở giữa. Quan điểm này đơn giản là không được các bằng
chứng từ thế kỷ 20 hậu thuẫn.
Ai kiểm soát quá khứ sẽ kiểm soát tương lai
Vấn đề đối với khu vực này
là việc giáo dục sai không chỉ giới hạn ở Trung Quốc. Bằng chứng không đáng
tin cậy che phủ diễn ngôn quốc tế về tranh chấp Biển Đông.
Nó đang bẻ lệch các đánh giá về tranh chấp này ở cấp cao trong chính phủ – cả
ở Đông Nam Á lẫn ở Hoa Kỳ. Tôi sẽ sử dụng ba tài liệu công bố gần đây để
minh họa cho quan điểm của mình: hai bài ‘Bình Luận’ năm 2014 của Trường
Nghiên cứu Quốc tế Rajaratnam ở Singapore do học giả Trung Quốc Li Dexia (Lý Đức
Hà) và một người Singapore tên Tan Keng Ta viết[1], một bài thuyết trình năm 2015 của cựu Phó Đại
sứ Mỹ tại Trung Quốc Charles Freeman tại Đại học Brown[2] và một bài báo năm 2014 của Trung tâm
Phân tích Hải quân có trụ sở tại Hoa Kỳ[3].
Điểm nổi bật về những công
trình này gần đây – và chúng chỉ là một các mẫu của một luồng văn bản rộng lớn
hơn nhiều – là chúng tin vào các tài liệu lịch sử công bố nhiều năm trước đây:
một số lượng nhỏ các bài viết được công bố trong thập niên 1970, đáng chú ý
là tài liệu của Hungdah Chiu và Choon-Ho Park[4]; cuốn sách Contest for the South
China Sea của Marwyn Samuels năm 1982[5]; cuốn sách China’s Ocean Frontier[6] của Greg Austin năm 1998 và hai bài báo
của Jianmeng Shen [申建明 (Thân Kiến Minh)] công bố năm 1997[7] và 2002[8].
Các tài liệu này đã tới
chỗ thành ‘kiến thức phổ thông’ (conventional wisdom) về các tranh chấp [ở Biển
Đông]. Google Scholar tính ra rằng tài liệu của Chiu và Park được 73 công
trình khác trích dẫn, và sách của Samuels đuợc 143. Những công trình có
trích dẫn các tác giả này gồm một của Brian Murphy năm 1994[9] và những công trình của Jianming Shen
năm 1997 và 2002 – rồi tới phiên chúng lại được trích dẫn tương ứng bởi 34 và
35 công trình khác và bởi Chi-kin Lo mà cuốn sách của ông lại được 111 công
trình khác nữa trích dẫn[10]. Đối với hầu hết các diễn giải lịch sử,
Lo dựa vào Samuels một cách rõ rệt, thực sự ca ngợi ông vì “xử lý tỉ mỉ các dữ
liệu lịch sử” (p.16). Đô đốc (hưu) Michael McDevitt khi viết lời mở đầu cho
bài viết của CNA, lưu ý rằng quyểnContest for the South China “ vẫn
đứng rất vững cho tới khoảng 40 năm nữa”.
Những công trình này là những
nỗ lực đầu tiên giảng giải lịch sử của các tranh chấp cho người xem nói Tiếng
Anh. Chúng có một số đặc điểm chung:
● Chúng được
viết bởi các chuyên gia về luật quốc tế hay khoa học chính trị chứ không phải
là nhà sử học về biển của khu vực này
● Chúng
thường thiếu các tham khảo từ nguồn tài liệu gốc (primary source material)
● Chúng có
xu hướng dựa vào các nguồn trên báo chí Trung Quốc mà các nguồn này lại
không đưa ra nguồn ttham khảo nào từ các bằng chứng ban đầu hoặc từ các
công trình có tham khảo các nguồn này
● Chúng có
xu hướng trích dẫn các bài báo nhiều năm sau đó như là bằng chứng có thật
● Chúng
thường thiếu thông tin bối cảnh lịch sử
● Chúng được
viết bởi tác giả có các quan hệ mạnh mẽ với Trung Quốc
Các công trình ban đầu về tranh chấp
Việc viết về các tranh chấp
ở Biển Đông bằng tiếng Anh nổi lên như hậu quả trực tiếp của ‘Trận đánh ở quần
đảo Hoàng Sa’ vào tháng 1 năm 1974, khi quân đội Trung Quốc đuổi quân đội Việt
Nam Cộng hòa (‘Nam Việt Nam’) ra khỏi nửa phía Tây của quần đảo này.
Các phân tích đầu tiên mang
tính báo chí, trong đó có một bài của Cheng Huan, lúc đó là một sinh viên luật
người Malaysia gốc Hoa ở London mà bây giờ là một khuôn mặt pháp lý cao cấp tại
Hong Kong, trong ấn bản tháng sau đó của Far Eastern Economic Review (Tạp Chí
Kinh Tế Viễn Đông)[11]. Trong bài đó, ông phát biểu rằng, “yêu sách
lịch sử của Trung Quốc [đối với quần đảo Hoàng Sa] rất vững chãi về mặt tài
liệu ghi chép (well documented) và đi ngược về quá khứ xa xưa rất nhiều năm,
rằng sẽ gần như bất khả để bất kỳ nước nào khác đưa ra một phản yêu sách có ý
nghĩa”. Lời thẩm định của một sinh viên còn non choẹt đã được chuẩn nhận
trích dẫn trong cuốn sách ‘China’s Policy Towards Territorial Dispute’ của
Chi-Kin Lo xuất bản năm 1989[12].
Các công trình có tính học
thuật đầu tiên xuất hiện năm sau đó. Chúng gồm một bài viết của Tao Cheng cho
Tạp chí Luật Quốc tế Texas[13] và một bài khác của Hungdah Chiu và
Choon-Ho Park cho Ocean Development & International Law[14]. Năm sau, Viện Nghiên cứu Châu Á tại
Hamburg xuất bản một chuyên khảo của học giả Đức Dieter Heinzig có tựa là
‘Disputed islands in the South China Sea’ (Các đảo tranh chấp ở Biển Đông)[15]. Đây là những bài viết mở đuờng nhưng nội
dung – và do đó phân tích của chúng – còn xa mới có tính trung lập.
Bài của Cheng chủ yếu dựa
vào nguồn của Trung Quốc với các thông tin bổ sung từ báo chí Mĩ. Các nguồn
chính của Trung Quốc là các tạp chí thương mại hồi thập niên 1930, đáng chú ý
là các số của tạp chí Wai jiao ping lun [外交评论 (Ngoại giao bình luận)] ở Thượng Hải năm 1933 và năm 1934 và Xin
ya xiya yue kan [新亚细亚月刊(Tân Á Tế Á Nguyệt san: Nguyệt san Châu Á mới)]
năm 1935. Các nguồn này được bổ sung bằng các tài liệu từ tạp chí tin tức
hàng tháng Ming pao [明报 (Minh báo)] ở Hong Kong năm 1973 và năm
1974. Các báo khác được trích dẫn bao gồm Kuo wen chou pao [国文周报 (Quốc văn chu báo: Tuần báo Quốc văn)], xuất bản tại Thượng Hải
từ năm 1924 đến 1937, Renmin ribao [Nhân dân nhật báo]
và New York Times. Cheng không tham khảo bất kỳ nguồn nào của
Pháp, Việt Nam hoặc Philippines, ngoại trừ một bài báo từ La
Geographie (Địa lí) năm 1933 đã được dịch và in lại trong Wai
jiao ping lun.
Bài báo của Hungdah Chiu và
Choon-Ho Park cũng dựa trên các nguồn tương tự. Trong những phần cốt lõi,
bài viết trích dẫn bằng chứng dựa trên các bài báo được xuất bản vào năm
1933 trong Wai jiao ping lun[16] và Wai jiao yue bao [外交月报 (Ngoại giao nguyệt báo)][17], và Fan-chih yueh-k'an [方志月刊 (Phuơng chí nguyệt san)] năm 1934[18] cũng như Kuo-wen chou pao
(Quốc văn chu báo) năm 1933 và Wai-chiao-pu kung-pao [外教部公宝:(Ngoại giao bộ công báo: Công báo Bộ Ngoại giao)] của Chính phủ
Trung Quốc[19]. Nó bổ sung thông tin này với các tài liệu
thu thập được từ quyểnNan-hai chu-tao ti-li chih lūeh [南海诸岛地理志略 (Nam Hải chư đảo địa lý chí lược)] của
Cheng Tzu-Yueh [郑资约 (Trịnh Tư Ước)] xuất bản năm 1948 ở Thượng
Hải[20], và các tuyên bố của Chính phủ Trung Hoa
dân quốc (Trung Hoa dân quốc) từ năm 1956[21] đến 1974[22].
Chiu và Park có sử dụng một
số tài liệu tham khảo của Việt Nam, đặc biệt là 8 thông cáo báo chí hay các bảng
kê sự kiện do Tòa Đại sứ Việt Nam cộng hòa ở Washington đưa ra. Họ cũng tham
khảo một số “tài liệu chưa được công bố thuộc sở hữu của hai tác giả”. Tuy
nhiên, phần lớn nguồn của họ là từ báo chí Trung Quốc.
Viết một năm sau đó, Dieter
Heinzig dựa vào, đặc biệt là các ấn bản của hai tạp chí Hong Kong Ch'i-shih
nien-tai [七十年代 (Thất thập niên đại)] và Ming
pao [明报 (Minh báo)][23] xuất bản lần lượt vào tháng 3 và tháng 5 năm
1974.
Điều quan trọng là tất cả những
bài viết nền tảng này đã được sử dụng làm tài liệu tham khảo cơ bản cho
các bài báo Trung Quốc xuất hiện trên truyền thông vào những thời điểm khi
thảo luận về Biển Đông đã bị chính trị hóa cao độ. Năm 1933 là năm mà Pháp
chính thức sáp nhập các thể địa lý thuộc quần đảo Trường Sa – kích động sự giận
dữ lan rộng ở Trung Quốc; 1956 là năm mà doanh nhân Tomas Cloma của
Philippines tuyên bố hầu hết quần đảo Trường Sa là quốc gia độc lập
"Freedomland" của chính mình – kích động các phản yêu sách của
Trung Hoa dân quốc, Trung Quốc và Việt Nam cộng hòa; và 1974 là năm có trận
đánh Hoàng Sa.
Các bài báo được công bố
trong ba thời kỳ này thì không thể được xem là các nguồn trung lập và vô tư
về bằng chứng thực tế mà cần phải được xem là những tài liệu phe phái ủng hộ
các quan điểm quốc gia cụ thể. Điều này không có ý nói rằng các tài liệu
đó sẽ tự động không chính xác mà cần phải thận trọng kiểm chứng những điều
chúng khẳng định với các nguồn tài liệu gốc. Đây không phải là điều mà các tác
giả đã làm.
Khuôn mẫu do Cheng, Chiu và
Park và Heinzig thiết lập sau đó đã được lặp lại trong cuốn sách Contest
for the South China Sea của Marwyn Samuels[24]. Chính Samuels tự thừa nhận sự thiên vị
Trung Quốc trong các nguồn của ông trong Lời mở đầu của cuốn sách, khi ông
nói “đây không phải là một nghiên cứu chủ yếu về lịch sử trên biển, chính sách
đại dương hoặc lợi ích của Việt Nam hay Philippines ở Biển Đông. Thay vào đó,
ngay cả khi với các yêu sách và phản yêu sách khác nhau được bàn luận khá
dài, mối quan tâm cuối cùng ở đây là với tính chất thay đổi trong chính sách đại
dương của Trung Quốc”. Kết hợp các vấn đề lại, Samuels thừa nhận rằng nghiên
cứu Châu Á của ông chủ yếu trong kho lưu trữ của Đài Loan. Tuy nhiên, các hồ
sơ chính yếu liên quan đến hành động của Trung Hoa dân quốc ở Biển Đông trong đầu
thế kỷ 20 chỉ được giải mật năm 2008/9, sau khi công trình của ông được công
bố khá lâu[25].
Có một sự bùng nổ về việc viết
lịch sử vào cuối thập niên 1990. Nhà địa lý Daniel Dzurek, cưu nhân viên Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ sau trở thành nhà tư vấn trong lĩnh vực dầu khí đã viết
một bài báo cho Đơn vị nghiên cứu các ranh giới quốc tế của Đại học Durham vào
năm 1996 và cuốn sách của một nhà phân tích Úc Greg Austin xuất bản vào năm
1998. Phần lịch sử của Austin tham khảo sách của Samuels, các bài viết của
Chiu và Park, tài liệu có tên ‘Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối
với quần đảo Tây Sa và Nam Sa’ do Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố tháng 1 năm
1980[26] và một bài viết của Lin Jinzhi (Lâm Kim
Chi) trên tờ Nhân dân[27]. Cuốn sách của Dzurek cũng tương tự.
Người đóng góp quan trọng kế
tiếp cho cách tường thuật này là một giáo sư luật Mỹ gốc Hoa, Jianming Shen
thuộc Trường Luật Đại học St. John ở New York. Năm 1997, ông công bố một bài viết
then chốt trong Hastings International and Comparative Law Review. Giống như Tạp
chí Luật quốc tế Texas, Tạp chí này là một ấn phẩm do sinh viên biên tập. Hầu
như không cần phải nói rằng ban biên tập gồm các sinh viên khó có thể là cơ
quan tốt nhất để giám sát các công trình về lịch sử biển Châu Á. Tiếp sau
bài viết này, Shen có một bài thứ hai trong một tạp chí có uy tín hơn, the
Chinese Journal of International Law - mặc dù trong nhiều mục nó chỉ
đơn giản là tham khảo bài viết thứ nhất.
Hai bài viết của Shen đặc biệt
có ảnh hưởng – chẳng hạn bài của CNA 2014 dẫn ít nhất là 170 lần hai bài
này. Tuy nhiên, khi kiểm tra lại nguồn thì thấy rõ hai bài này cũng đáng nghi
như các bài có trước. Các mục về lịch sử nhằm cung cấp các bằng chứng cho
bài năm 1997 của ông dựa phần lớn vào hai nguồn. Một là một cuốn sách của
Duanmu Zheng [端木正 (Đoan Mộc Chính)] có tên Guoji
fa [Quốc tế pháp (Luật quốc tế)] do Nhà xuất bản Đại học Bắc
Kinh xuất bản năm 1989 (đuợc tham chiếu ít nhất 18 lần)[28]. Năm sau Duanmu chính thức trở thành
quan chức pháp luật đứng thứ hai ở Trung Quốc – Phó Chánh án Toà án Nhân dân Tối
cao của Trung Quốc – và sau đó là một trong những người dự thảo Luật Cơ bản của
Hong Kong[29]. Nói cách khác, ông là một quan chức cấp cao
của nhà nước Trung Quốc. Nguồn sử liệu chính khác của Shen là một tập hợp các
bài từ một hội nghị chuyên đề về các đảo ở Biển Đông do Viện Chiến lược
Phát triển Biển, một bộ phận của Cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc, tổ chức
năm 1992 (đuợc tham chiếu dẫn ít nhất 11 lần). Có vẻ còn hơn là trớ trêu rằng
tài liệu do Cục Quản lý Hải dương Quốc gia làm ra và tiếp đó được các cơ
quan pháp lý của Trung Quốc xào nấu thông qua các tác phẩm của giáo sư Shen và
của Trung tâm Phân tích Hải quân lúc đó mà bây giờ lại trở thành một thành phần
trong hiểu biết của Lầu Năm Góc về lịch sử Biển Đông.
Không ai trong số các tác giả
được nói tới cho đến giờ là chuyên gia về lịch sử biển ở Biển Đông mà là nhà
khoa học chính trị (Cheng và Samuels), luật sư (Chiu và Park và Shen) hoặc
chuyên gia quan hệ quốc tế (Heinzig và Austin). Như một quy luật, các công
trình của họ không kiểm tra tính toàn vẹn của các lời văn mà họ trích dẫn, và họ
cũng không bàn luận về bối cảnh mà chúng được tạo ra. Đặc biệt Cheng cùng với
Chiu và Park lại đưa vào các khái niệm lỗi thời – chẳng hạn như ‘đất nước’
(country) để mô tả quan hệ tiền hiện đại giữa các thực thể chính trị xung quanh
Biển Đông – cho những giai đoạn mà các quan hệ chính trị rất khác biệt với các
quan hệ đang có hiện nay.
Cũng đáng chú ý là Cheng,
Chiu và Shen đều là người gốc Hoa. Cheng và Shen đều tốt nghiệp LLB (Cử nhân Luật)
tại Đại học Bắc Kinh. Chiu tốt nghiệp Đại học Quốc gia Đài Loan. Dù điều này tất
nhiên không tự động làm cho họ thành thiên vị, nhưng sẽ hợp lý để cho rằng họ
quen thuộc với các tài liệu của Trung Quốc và các quan điểm của Trung Quốc nhiều
hơn. Cả Samuels lẫn Heinzig đều là những học giả về Trung Quốc.
Bằng chứng có lổ hổng
Hầu như không đáng ngạc
nhiên rằng những tài liệu bằng tiếng Anh đầu tiên về tranh chấp [Biển Đông], được
viết như thể chúng do các tác giả Trung Quốc viết và dựa trên các nguồn của
Trung Quốc, ủng hộ lập luận của Trung Quốc. Cheng đánh giá (p. 277) rằng “có
lẽ an toàn để nói rằng vị thế của Trung Quốc trong tranh chấp các đảo ở Biển
Đông là một ‘yêu sách vượt trội hơn cả’”. Chiu và Park (p.20) kết luận rằng
“Trung Quốc có yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
(Spratlies [sic]) mạnh mẽ hơn Việt Nam”. Có thể thấy rõ quan điểm của Shen qua
tựa hai bài báo của ông ta: ‘Các quy tắc của luật quốc tế và bằng chứng lịch sử
hậu thuẫn quyền sở hữu của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Đông’ và ‘Chủ quyền
của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Đông’.
Những lời phán này vẫn còn
có ảnh hưởng tới ngày nay: chẳng hạn chúng đã được các bài viết của Li và Tan
năm 2014 trích dẫn. Tuy nhiên, khi xem xét cặn kẽ hơn các bằng chứng mà họ dựa
vào thì sẽ thấy chúng sai lầm trầm trọng. Những bài viết vào năm 1933, 1956
và 1974 không nên được coi là bằng chứng trung lập mà là các bài đọc có
tính phe phái về lịch sử tranh chấp.
Bài viết này không có chỗ để
nêu lên tất cả những khẳng định mà các tác giả đã đưa ra về các sự kiện trước
thế kỷ 19. Tóm lại, các điều Cheng, Chiu và Park, Samuels và Shen đưa ra đều có
cùng giả định chung: đó là Trung Quốc luôn luôn chiếm ưu thế hải quân, thương mại
và khả năng đánh cá ở Biển Đông. Chẳng hạn như Cheng đã nêu như thế này, “Nó là
một phần quan trọng của tuyến đường biển từ Châu Âu đến Phương Đông kể từ thế
kỷ thứ 16, là nơi trú ẩn cho ngư dân Đảo Hải Nam, và là cửa ngõ cho các thương
gia Trung Quốc từ miền Nam Trung Quốc đến Đông Nam Á kể từ thời xa
xưa”(p.266).
Lịch sử dựa vào thực tiễn
Biển Đông nhiều hơn gợi cho thấy tình hình phức tạp hơn nhiều. Các công trình của
các nhà sử học Leonard Blussé, Derek Heng, Pierre-Yves Manguin, Roderich Ptak,
Angela Schottenhammer, Li Tana, Nicholas Tarling và Geoff Wade đã cho thấy việc
sử dụng biển trong thời tiền hiện đại đa phương hơn rất nhiều. Tàu thuyền và
các thương nhân Trung Quốc hầu như không có vai trò trong giao thương đường biển
cho mãi đến thế kỷ thứ 10 và thậm chí sau đó cũng chưa bao giờ chiếm ưu thế mà
sử dụng biển chung với người Malaysia, Ấn Độ, Ả Rập và Châu Âu. Nghiên cứu của
François-Xavier Bonnet[30], Ulises Granados[31] và Stein Tønnesson[32] cho thấy mô thức tương tự đã kéo dài vào
thế kỷ 20 như thế nào.
Nhiều tài liệu tiết lộ hồi đầu
thế kỷ 20 cho thấy rằng nhà nước Trung Quốc gặp khó khăn rất lớn trong việc kiểm
soát ngay cả bờ biển của chính mình, và hoàn toàn không có khả năng triển khai
thẩm quyền tới các đảo cách xa hàng trăm cây số ngoài khơi. Ví dụ, hai bài báo
trên The Times ở London tháng 1 năm 1908 mô tả sự bất lực của
chính quyền Trung Quốc trong việc kiểm soát ‘cướp biển’ ở sông Tây Giang –
trong nội địa ở Canton / Quảng Châu[33]. Một bài báo trên tờ The
Examiner của Australia năm 1909 cho chúng ta biết rằng người nước
ngoài (“hai người Đức, một người Nhật, và một số người Malaysia”) đã bắt đầu
các hoạt động khai mỏ trên đảo Hải Nam mà không có cơ quan chức năng nào phát
hiện cho đến mãi sau này[34].
Điều mà các tài liệu này bộc
lộ là một Biển Đông cho đến giữa thế kỷ 20 cơ bản vẫn không ai cai quản trừ các
can thiệp khi cần của các cường quốc nước ngoài để chống cướp biển. Chỉ trong
năm 1909, sau vụ om sòm xung quanh việc nhà khai thác phân chim Nhật Nishizawa
Yoshiji chiếm đảo Pratas [Trung Quốc gọi là Đông Sa] thì nhà chức trách Trung
Quốc mới trở nên quan tâm đến các đảo ngoài khơi[35]
Việc phản đối các cuộc khảo sát của Đức
Tuy nhiên, Samuels (p. 52)
cho rằng có thể xem Trung Quốc đã ngầm yêu sách quần đảo Trường
Sa từ năm 1883 khi (theo trình bày của ông) chính phủ nhà Thanh chính
thức phản đối đoàn khảo sát (có nhà nước bảo trợ) Đức tới quần đảo Trường
Sa. Khẳng định này lấy nguồn từ số tháng 5 năm 1974 của tạp chí tháng Ming
pao của Hong Kong mà không có bằng chứng bổ trợ nào khác. Chiu và
Park (trong chú thích 47) quy nó về một bài báo trong Wai jiao yue
bao năm 1933, tức viết ra sau sự kiện đáng nghi vấn này những 50 năm[36], Heinzig cũng trích dẫn cùng số Ming
pao mà Samuels dựa vào để nói rằng đoàn khảo sát Đức năm 1883 thực sự
đã rút đi sau khi có phản đối của Trung Quốc.
Điều khẳng định này có vẻ rất
khó xảy ra bởi vì các nhà khảo sát Đức đã lập bản đồ quần đảo Hoàng Sa (không
phải Trường Sa) từ năm 1881 đến năm 1883, hoàn tất công việc và sau đó đã xuất
bản một hải đồ. Ấn bản tiếng Pháp của hải đồ đó được xuất bản năm 1885[37].
Công ước Pháp-Thanh [Sino-Tonkin] 1887
Samuels lập luận rằng Công ước
Pháp -Thanh 1887 do chính phủ Pháp đàm phán, trên danh nghĩa là thay mặt cho
cho Bắc Kỳ [Tonkin], cho ra một thỏa thuận quốc tế phân các đảo này [Hoàng Sa
và Trường Sa] cho Trung Quốc (p. 52). Điều 3 của Công ước quả thực có phân các
đảo phía Đông kinh tuyến Paris 105° 43' cho Trung Quốc. Nhưng Samuels và các
tác giả khác không để ý rằng Công ước này áp dụng cho Bắc Bộ – khu vực phía Bắc
của vùng đất bây giờ là Việt Nam và do đó chỉ có thể liên quan đến các đảo
trong Vịnh Bắc Bộ. Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm lệch xa về phía Nam trong
khu vực mà lúc đó là lãnh địa của An Nam (Trung Kỳ) và Nam Kỳ không thuộc phạm
vi của Công Ước.
Bí ẩn của chuyến đi năm 1902
Ngoài ra còn xuất hiện một số
nhầm lẫn về thời gian của chuyến đi đầu tiên của các quan chức Trung Quốc tới
quần đảo Hoàng Sa. Samuels (p. 53), tin vào bài viết trênMing Pao năm
1974, cho chuyến đi đó là vào năm 1902 với chuyến đi thứ hai vào năm 1908.
Austin và Dzurek viết theo Samuels trong sự việc này. Li và Tan (2014) cũng khẳng
định là năm 1902, cùng với một chuyến đi riêng biệt khác vào năm 1907. Cheng
cho nó là vào năm 1907, dựa trên một số tài liệu tham khảo năm 1933[38] như Chiu và Park đã làm, hai tác giả này
dẫn một ấn bản năm 1933 của Kuo-wen chou-pao[39].Tuy nhiên, trái ngược với các tường thuật
này, được viết sau cái cho là các sự kiện mà họ định mô tả tới 26 và 72 năm,
việc khảo sát báo chí cùng thời đó cho thấy khá rõ rằng các chuyến đi diễn ra
vào năm 1909.
Có lý do chính đáng cho sự
nhầm lẫn về chuyến đi năm 1902 này. Vào tháng 6 năm 1937, trưởng khu hành chính
số 9 của Trung Quốc, Huang Qiang đã được phái đến quần đảo Hoàng Sa thực hiện một
nhiệm vụ bí mật – một phần là để kiểm tra xem có hoạt động của người Nhật trên
các đảo hay không.
Nhưng ông cũng có một nhiệm
vụ khác – mà một phụ lục bí mật kèm báo cáo của ông cho thấy rõ. Một đoạn trích
của phụ lục này đã được Ủy ban Địa danh tỉnh Quảng Đông in lại vào năm 1987[40]. Tàu của ông chở theo 30 cột mốc
(marker) bằng đá – một số ghi năm 1902, một số ghi năm 1912 và một số khác ghi
năm 1921. Trên Cồn Bắc, họ chôn 2 cột ghi năm 1902 và 4 cột ghi năm 1912;
trên Đảo Linh Côn (Lincoln), toán công tác chôn 1 cột ghi năm 1902, 1
cột ghi năm 1912 và 1 cột ghi năm 1921 và trên đảo Phú Lâm, 2 cột ghi năm 1921.
Cuối cùng, trên Đảo Đá (Rocky), họ chôn 1 cột mốc duy nhất ghi năm 1912.
Các cột mốc này bị quên lãng
cho mãi đến năm 1974 khi mà, sau trận đánh Hoàng Sa, chúng được tìm thấy và
‘khám phá’ này được làm ầm ĩ trên báo chí Hồng Kông – nhưMing pao. Chuyến
đi năm 1902 không hề tồn tại này sau đó lại đi vào sử sách. Chỉ tới bây giờ nó
mới bị nhà địa lý học người Pháp làm việc ở Manila Francois-Xavier Bonnet vạch
trần[41].
Tên các đảo
Trong bài viết năm 1997,
Shen khẳng định Chính phủ Trung Hoa dân quốc ‘thẩm tra lại tên các đảo ở biển
Nam Trung Quốc’ năm 1932. Trên thực tế Ủy ban chính phủ đó chỉ đơn giản dịch
hay phiên âm tên Tiếng Anh hoặc tên quốc tế hiện có. Kết quả là một số trong những
cái tên tiếng Trung tiếp tục vinh danh các nhà khảo sát Anh vốn lập bản đồ các
thể địa lý này lần đầu tiên. Trong quần đảo Hoàng Sa có Ling Yang
Jiao [Linh Dương Tiêu] – dịch từ Antelope Reef (Đá Hải Sâm) – vốn được
đặt tên theo một tàu khảo sát Antelope của Anh. Jin Yin Dao [Kim
Ngân Đảo] – Money Island (Đảo Quang Ảnh) – không phải được đặt tên theo tiền và
bạc – mà theo tên Tổng giám sát William Taylor Money của Bombay Marine – đoàn
tàu của Công ti Đông Ấn.
Phản đối ngoại giao năm 1933?
Một lập luận vốn là chìa
khóa cho yêu sách của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa là việc khẳng định
thường được lặp đi lặp lại rằng Trung Hoa dân quốc đã chính thức phản đối Chính
phủ Pháp sau khi nước này chính thức sáp nhập một số thể địa lý trong quần đảo
Trường Sa vào ngày 26 tháng 7 năm 1933. Điều chắc chắn đúng là sự sáp nhập gây
kinh ngạc trong chính phủ và nỗi tức giận dân tộc chủ nghĩa trong công chúng.
Tuy nhiên, có chăng một phản đối chinh thức đã được đưa ra?
Tao Cheng, trong bài báo năm
1975, dẫn một bài viết trong Xin Ya Ya Xi yue kan [Hsin-ya-hsi-ya
Yueh kan (Tân Á Tế Á nguyệt san)], ra hai năm sau đó, năm 1935[42]. Chiu và Park nêu trong một chú thích rằng
“có bằng chứng rằng Trung Quốc cũng phản đối”. Họ tham khảo bài viết của Cho
Min trong Wai-chiao yueh-pao [Ngoại giao nguyệt báo] [43], và một cuốn sách Nan-hai-chu tao
ti-li chih-lūeh [Nam Hải chư đảo địa lí chí lược] năm 1948 của Cheng
Tzu-Yueh[44].
Tuy nhiên, họ thừa nhận rằng
“Ngày Trung Quốc đưa ra phản đối không có nêu trong cuốn sách của Cheng, và
cũng không được nói tới trong ‘Bản ghi nhớ về bốn quần đảo lớn của nước Trung
Hoa dân quốc ở Biển Đông’ do Bộ Ngoại giao Trung Hoa dân quốc công bố vào tháng
2 năm 1974. Xem Lien-ho-pao [联合报 (Liên hiệp báo)], ấn bản nước ngoài, 25 tháng 2 năm 1974, p.
3”.
Điều khẳng định này xuất hiện
trong bài thuyết trình của Đại sứ Freeman và trong bài của CNA – bài này trích
dẫn Shen. Trong bài báo năm 1997, Shen trích dẫn hai nguồn: Cheng, và Chiu và
Park – nhưng như chúng ta đã thấy – các tác giả này không nêu ra bất kỳ tài liệu
tham khảo nào cho khẳng định của mình. Trong bài báo năm 2002, Shen dẫn các bài
viết của hội nghị chuyên đề của Cục Hải dương Quốc gia[45]. Những bài viết này không tìm thấy bên ngoài
Trung Quốc, nhưng có bằng chứng tốt rằng tất cả các công trình này đều chỉ đơn
giản là sai.
Francois-Xavier Bonnet đã
tìm được hồ sơ của Mỹ cho thấy rằng ngay sau công bố của Pháp Chính phủ Trung
Quốc đã yêu cầu viên lãnh sự ở Manila, ông Kuan-ling Kwong đến hỏi chính quyền
thực dân Mỹ về bản đồ có vẽ vị trí của các đảo đó. Chỉ sau đó Chính phủ ở Nam
Kinh mới hiểu được rằng những đảo này không thuộc quần đảo Hoàng Sa và sau đó
đã quyết định không đưa ra bất kỳ phản đối chính thức nào[46].
Theo Bonnet, nguyên do của
việc này có thể thấy rõ từ biên bản của cuộc họp của Hội đồng quân sự Trung Hoa
dân quốc vào ngày 1 tháng 9 năm 1933, “Tất cả các nhà địa lý chuyên nghiệp của
chúng ta nói rằng đảo Tri Tôn [thuộc Hoàng Sa] là đảo cực Nam của lãnh thổ của
chúng ta”[47]. Trung Hoa dân quốc quyết định rằng họ không
có yêu sách trong quần đảo Trường Sa vào thời điểm đó và do đó không có gì để
phản đối.
Nghiên cứu của Chris Chung,
một nghiên cứu sinh người Canada, đã phát hiện ra rằng cho tới năm 1946, các hồ
sơ của Trung Hoa dân quốc đã dẫn chứng việc Trung Quốc phản đối chính thức vào
năm 1933 như thể nó là có thật. Điều này sau đó đã trở thành cách biện minh của
Trung Quốc cho việc ‘đòi lại’ những đảo này từ tay Nhật Bản sau Chiến tranh thế
giới thứ Hai[48].
Tóm lại, những gì có vẻ như
đã xảy ra là hơn 13 năm sau khi Pháp sáp nhập các đảo, một hiểu biết khác biệt
về những gì đã xảy ra vào năm 1933 đã bám cứng trong giới cầm quyền Trung Hoa
dân quốc. Theo tôi đoán, các quan chức Trung Quốc nhầm lẫn một phản kháng có thật
năm 1932 về hoạt động của Pháp ở quần đảo Hoàng Sa với một phản kháng năm 1933
không hề tồn tại về quần đảo Trường Sa.
Các cuộc khảo sát trong thập niên 1930
Trong bài báo năm 2002, Shen
cho rằng Trung Hoa dân quốc, “đã tổ chức ba đợt khảo sát quy mô lớn cùng các hoạt
động đặt tên lại tương ứng vào năm 1932, 1935 và 1947” (p.107) nhưng không có công
việc khảo sát nào đã được thực hiện ở quần đảo Trường Sa mà chỉ là việc sao
chép lại bản đồ quốc tế. Điều này có vẻ là lý do tại sao Trung Hoa dân quốc đã
dịch sai tên của James Shoal [Bãi Ngầm James] – ban đầu gọi nó Zengmu
Tan [曾母滩Tăng Mẫu Than)]. Zeng-mu chỉ
đơn giản là phiên âm của từ James. Tan [滩 (than)] có nghĩa là bãi cát, trong khi
thực tế thì ‘shoal’ là bãi ngầm. Qua việc dịch sai đơn giản này một mảnh đáy biển
đã trở thành một đảo và được coi là lãnh thổ cực Nam của Trung Quốc cho đến tận
hôm nay – dù nó không tồn tại! Những cái tên đó đã được Trung Hoa dân quốc sửa
đổi lại năm 1947 (lúc đó Zengmu Tan trở thành Zengmu Ansha –
[暗沙 (ám sa: rạn san hô ngầm)]) và
Trung Quốc chỉnh lại một lần nữa năm 1983[49].
Tuyên bố Cairo
Shen (2002 p. 139), và Li và
Tan (2014 ) lập luận theo đúng Bộ Ngoại giao Trung Quốc rằng theo Tuyên bố
Cairo 1943, các đồng minh thời chiến đã trao các đảo ở Biển Đông cho Trung Quốc.
Bài của CAN bàn luận về khẳng định này và rạch ròi bác bỏ nó trên cơ sở rằng,
"Tuyên bố Cairo,
như được củng cố bởi Tuyên ngôn Potsdam , chỉ quy định rằng
Trung Quốc sẽ thu hồi lại Mãn Châu, Formosa [Đài Loan], và Pescadores [Quần đảo
Bành Hồ] sau chiến tranh. Câu tiếp theo chỉ đơn giản nói rằng Nhật Bản sẽ bị trục
xuất khỏi các ‘vùng lãnh thổ khác’ mà họ đã chiếm bằng bạo lực, nhưng không chỉ
ra rằng những ‘vùng lãnh thổ khác’ đó sẽ được trả lại cho Trung Quốc. Dù không
được nêu cụ thể, kết luận hợp lý duy nhất là những ‘vùng lãnh thổ khác’ bao gồm
cả quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa, vốn đã bị đoạt lấy bằng bạo lực từ
tay Pháp chứ không phải từ tayTrung Quốc” (p. 97).
Tuy nhiên, Freeman (2015) lập
luận rằng vì nhà chức trách Nhật Bản sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường
Sa vào tỉnh Đài Loan nên Tuyên bố Cairo trả chúng cùng với phần còn lại của ‘Tỉnh
Đài Loan’ về cho Trung Quốc. Nhưng Tuyên bố không đề cập đến từ ‘Đài Loan’. Nó
nói về Formosa và Pescadores. Kết luận hợp lý là Đồng minh chỉ đồng ý rằng hai
quần đảo cụ thể này [Formosa và Pescadores] sẽ được trả lại cho Trung Quốc.
Nhật Bản đầu hàng ở quần đảo Hoàng Sa
Cả bài của CNA lẫn bài thuyết
trình của Đại sứ Freeman đều chuyển tải khẳng định rằng quân đội Trung Quốc tiếp
nhận sự đầu hàng của các đơn vị của Nhật Bản trú đóng tại quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa vào cuối Thế chiến thứ Hai. Freeman lập luận rằng Hải quân Mỹ thực sự
đã chở lực lượng Trung Hoa tới hai quần đảo đó cho mục đích này. Trong trao đổi
riêng với tác giả, ông đã không thể cung cấp bất kỳ bằng chứng bổ trợ nào cho
khẳng định đó.
Dựa trên những bằng chứng từ
kho lưu trữ của quân đội Mỹ và Úc, khẳng định đó khó có vẻ là sự thật. Trong
chiến tranh, Nhật Bản đã có các căn cứ quân sự trên Đảo Hoàng Sa (Pattle) và
Phú Lâm (Woody) thuộc quần đảo Hoàng Sa và đảo Ba Bình (Itu-Aba) thuộc quần đảo
Trường Sa. Đảo Phú Lâm bị tàu ngầm USS Pargo pháo kích ngày 6 tháng 2 năm
1945[50] và ngày 8 tháng 3 máy bay Mỹ ném bom đảo
này cùng với Đảo Hoàng Sa[51]. Khi tàu ngầm USS Cabrilla ghé đảo Phú
Lâm vào ngày 2 tháng 7, cờ tam tài [ba màu] của Pháp còn đang treo, nhưng lúc
đó cũng có với một lá cờ trắng [mặt trời] ở trên nó[52].
Ba Bình đã bị máy bay Mỹ ném
bom xăng ngày 1 tháng 5 năm 1945. Sáu tháng sau đó, Hải Quân Mỹ đã phái một
toán trinh sát đến Ba Bình. Toán này đổ bộ lên đảo ngày 20 tháng 11 năm 1945 và
nhận thấy đảo không người – người Nhật đã bỏ đi.
Mãi cho đến hơn một năm sau
đó – tháng 12 năm 1946 mới có một phái đoàn Trung Hoa dân quốc dùng tàu chiến
cũ của Mỹ (vừa được chuyển cho Hải quân Trung Hoa dân quốc) mới có thể đi tới
được đảo này. (Hai tháng trước đó người Pháp đã đến và khẳng định lại chủ quyền
đảo này nhưng điều này hiếm khi được đề cập trong các nguồn Trung Quốc). Tên tiếng
Trung của Ba Bình là Taiping Dao (Thái Bình Đảo), được đặt
theo tên tàu chiến chở phái đoàn này. Tàu Taiping trước đây là
tàu USS Decker. Điều trớ trêu là nếu như Hoa Kỳ không cung cấp những tàu chiến
đó thì Trung Quốc sẽ không có yêu sách nào trong quần đảo Trường Sa hiện nay.
Kết luận
Việc xem xét lại các bằng chứng
kiểm chứng được cho thấy một lịch sử về các đảo ở Biển Đông khác biệt với lịch
sử có trong hầu hết các tài liệu tham khảo thường được sử dụng. Nhà nước Trung
Quốc chỉ bắt đầu quan tâm tới các đảo này từ thế kỷ 20. Chưa có bằng chứng nào
về việc có viên chức nhà nước Trung Quốc đến quần đảo Hoàng Sa trước ngày 6
tháng 6 năm 1909 đã được đưa ra. Chỉ trong năm 1933 sự chú ý của quốc gia mới
chuyển sang quần đảo Trường Sa – và tại thời điểm đó Trung Hoa dân quốc đã quyết
định không cố yêu sách quần đảo này. Sự chú ý đã được hồi sinh
ngay lập tức sau Thế chiến thứ Hai, dựa trên những hiểu lầm về những gì xảy ra
vào năm 1933 và lần đầu tiên trong lịch sử một quan chức Trung Quốc đặt chân
lên quần đảo Trường Sa vào ngày 12 tháng 12 năm 1946.
Năm 1933, 1956, 1974 và hiện
nay cũng vậy lịch sử về các đảo này được viết và viết lại. Trong mỗi cuộc khủng
hoảng, những kẻ ủng hộ lập trường của Trung Quốc lại công bố những phiên bản mới
của lịch sử vốn vẫn tái chế những sai lầm trước đó và đôi khi lại thêm vào
trong đó nhiều sai lầm mới của chính họ. Khi mà các cách nhìn nhận này vượt qua
rào cản ngôn ngữ nhảy sang tiếng Anh vào giữa thập niên 1970, nền móng lung lay
của chúng lại có vẻ rắn chắc đối với những người mới tìm tòi lịch sử lần đầu.
Chúng đã được in trên các tạp chí học thuật Phương Tây và ‘trở thành sự thật’.
Nhưng việc xem xét lại các nguồn của chúng làm lộ ra điểm yếu cố hữu của
chúng.
Không còn đủ thuận lợi cho
những kẻ ủng hộ yêu sách của Trung Quốc dùng những bằng chứng vô căn cứ như vậy
làm cơ sở cho lập luận của mình. Đã tới lúc cần thực hiện một một nỗ lực phối hợp
để xem xét lại các nguồn thông tin gốc đối với phần lớn các khẳng định được các
tác giả này đưa ra cũng như đánh giá lại độ chính xác của chúng. Việc giải quyết
các tranh chấp phụ thuộc vào đó – cả trong phòng xử án ở The Hague lẫn trong
các vùng nước của Biển Đông.
Cựu phóng viên BBC Bill
Hayton là tác giả của The South China Sea: the struggle for power in Asia’, (Biển
Đông: cuộc tranh giành quyền lực ở Châu Á), gọi là cuốn sách đầu tiên đưa ra ý
nghĩa rõ ràng về các tranh chấp ở Biển Đông.
[1] Li Dexia and Tan Keng Tat, South China
Sea Disputes: China Has Evidence of Historical Claims. RSIS Commentary 165
dated 15 August 2014 Available athttp://www.rsis.edu.sg/wp-content/uploads/2014/08/CO14165.pdf. See also Li Dexia, Xisha (Paracel) Islands:
Why China’s Sovereignty is ‘Indisputable’. RSIS Commentary 116 dated 20 June
2014. Available at http://www.rsis.edu.sg/wp-content/uploads/2014/07/CO14116.pdf
[2] Charles Freeman, Diplomacy on the rocks.
Remarks at a Seminar of the Watson Institute for International Studies, Brown
University 10 April 2015.http://chasfreeman.net/diplomacy-on-the-rocks-china-and-other-claimants-in-the-south-china-sea/
[3] Pete Pedrozo, China versus Vietnam: An
Analysis of the Competing Claims in the South China Sea, Center for Naval
Analyses, August 2014. Available athttp://www.cna.org/sites/default/files/research/IOP-2014-U-008433.pdf
[4] Hungdah Chiu & Choon‐Ho Park (1975): Legal status of the Paracel
and Spratly Islands, Ocean Development & International Law,
3:1, 1-28.
[5] Marwyn S. Samuels, Contest for the South
China Sea, Methuen New York, 1982.
[6] Greg Austin, China’s Ocean Frontier:
International Law, Military Force, and National Development. Allen & Unwin,
1998
[7] Jianming Shen, International Law Rules
and Historical Evidence Supporting China’s Title to the South China Sea
Islands, 21 Hastings International and Comparative Law Review. 1‐75 (1997‐1998).
[8] Jianming Shen, China’s Sovereignty over
the South China Sea Islands: A Historical Perspective, CHINESE JIL (2002), pp.
94‐157
[9] Brian K. Murphy, Dangerous Ground: the
Spratly Islands and International Law,Ocean and Coastal L.J. (1994), pp.
187–212
[10] Chi-kin Lo, China's Policy Towards
Territorial Disputes: The Case of the South China Sea Islands. Routledge 1989
[11] Cheng Huan, A matter of legality. Far
Eastern Economic Review. February 1974
[12] Chi-Kin Lo, China’s Policy Towards
Territorial Disputes. Routledge, London. 1989
[13] Tao Cheng, Dispute over the South China
Sea Islands, Texas International Law Journal 265 (1975)
[14] Chiu & Park (1975) ibid
[15] Dieter Heinzig. ‘Disputed islands in the
South China Sea: Paracels, Spratlys, Pratas, Macclesfield Bank’
Institut für Asienkunde (Hamburg). 1976
[17] Wai-chiao yüeh-pao [Ngoại Giao Nguyệt Báo]], vol 3, no. 3
(Peiping [Peking], September 15, 1933), p. 78
[20] Cheng Tzu-yüeh, Nan-hai chu-tao
ti-li chih-lūeh [Nam Hải chư đảo địa lí chí lược] (Shanghai:
Shang-wu ying-shu-kuan, 1948).
[21] Tuyên bố do Bộ Ngoại giao Trung Hoa dân
quốc đưa rangày 10 tháng 6 năm 1956, tóm lược trong “Vietnamese Claim of
Sovereignty Refuted," Free China Weekly,June 26, 1956, p.
3; Chung-yang jih-pao, June 11, 1956, p. 6; Shao Hsun-cheng,
"Chinese Islands in the South China Sea," People's
China, no. 13 (Peking, 1956) Foreign Languages Press
[22] Lien-ho-pao [United daily news], overseas edition,
February 25, 1974, p. 3; "Memorandum on Four Large Archipelagoes,"
ROC Ministry of Foreign Affairs (February 1974).
[25] Chris P.C. Chung, “Since Time
Immemorial”: China’s Historical Claim in the South China Sea. MA Thesis,
University of Calgary, September 2013. p8
[26] PRC Ministry of Foreign Affairs, China’s
indisputable sovereignty over the Xisha and Nansha islands, Beijing Review Vol.
23 No.7 1980 pp15-24
[29] Điều đáng lưu ý là Duanmu không phải là
đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc mà là thành viên của Liên đoàn Dân chủ Trung
Quốc. Colin Mackerras, The New Cambridge Handbook of Contemporary China.
Cambridge University Press, 2001 p85.
[30] Bonnet, Geopolitics of Scarborough
Shoal. Discussion Paper #14. IRASEC (Research Institute on
Contemporary Southeast Asia), Bangkok. November 2012
[31] Ulises Granados, As China Meets the
Southern Sea Frontier: Ocean Identity in the Making, 1902-1937. Pacific
Affairs Vol. 78, No. 3 (Fall, 2005), pp. 443-461
[32] Xem, đặc biệt là, Stein Tonnesson, The
South China Sea in the Age of European Decline. Modern Asian Studies.
Vol 40, Issue 01. February 2006, pp 1-57 and An International History of the
Dispute in the South China Sea, East Asia Institute Working Paper No.
71 (2001)
[33] The Times “Chinese foreign relations” Jan 18,
1908; pg. 5; The Times “The recent piracy in Canton waters”. Jan
25, 1908; pg. 5
[34] The Examiner (Launceston, Tasmania) “China and her islands-keeping an eye on
foreign nations” Saturday 12 June 1909 p 8
[36] Điều này được chính quyền Tỉnh Quảng
Đông tiết lộ năm 1933. Xem Cho Min, "The Triangular Relation- ship Among
China, France and Japan and the Question of Nine Islands in South
Sea," Wai-chiao yüeh-pao [Ngoại giao nguyệt báo], Vol 3, no. 3
(Peiping [Peking], September 15, 1933); p. 82, note 4.
[37] Hydrographic Office, The Admiralty, The
China Sea Directory, Vol. 2, London, 1889, p.103. Quoted in Bonnet 2012
[38] Tham khảo của Cheng: Saix, Iles
Paracels, La Geographie (Nov.-Dec. 1933),reprinted in 3 Wai Chiao
Ping Lun (Foreign Affairs Review), No. 5 (Hu Huan-Yung Chinese transl. May
1934), at 65-72;, at 67; Hu, Fa-jen Mou-tuo Hsi-Sha Ch’ün-tao [The
French Plot to Snatch the Paracel Islands], 3 Wai Chiao Ping Lun (Foreign
Affairs Review), No. 4 (April 1934), at 92.
[39] "On Li Chun's Patrol of the
Sea"(Về chuyến tuần tra của Lí Chuẩn) Kuo-wen chou-pao [National
news weekly], vol. 10, no. 33 (August 21, 1933), p. 6.
[40] Committee of Place Names of the
Guangdong Province [Guangdong sheng di ming wei yuan hui (Quảng Đông Tỉnh địa
danh uỷ viên hội)], Compilation of references of the names of all the South Sea
islands [Nan Hai zhu dao di ming zi liao hui bian (Nam Hải chư đảo địa danh tư
liệu hội biên)], Guangdong Map Publishing Company [Guangdong sheng di tu chu
ban she], 1987, p.289
[41] Bài viết do Francois-Xavier Bonnet trình
bày tại the Southeast Asia Sea conference, Ateneo Law Center, Makati, Manila.
March 27 2015. (Tường thuật có ở đây:http://opinion.inquirer.net/84307/a-chinese-strategy-manipulating-the-record)
[42] Lu, Hsi-sha Ch'iin-tao Chih-yao [Tây Sa
quần đảo sơ yếu], 9 Hsin Ya Hsi Ya Yueh Kan No. 6 (June 1935), at 50-54.
[43] Cho Min, "The Triangular
Relationship Among China, France and Japan and the Question of Nine Islands in
South Sea," Wai-chiao yüeh-pao [Ngoại giao nguyệt báo],
vol 3, no. 3 (Peiping [Peking], September 15, 1933), p. 78.
[44] Cheng Tzu-yüeh [Trịnh Tư Ước], Nan-hai
chu-tao ti-li chih-lūeh [Nam Hải chư đảo địa lí chí lược] (Shanghai:
Shang-wu ying-shu-kuan, 1948), p.80
[45] Jianming Shen, International Law Rules
and Historical Evidence Supporting China’s Title to the South China Sea
Islands, 21 Hastings International and Comparative Law Review. 1‐75 (1997) footnote 160.
[46] François-Xavier Bonnet, Geopolitics of Scarborough Shoal, IRASEC
Discussion Papers #14, Bangkok November 2012.
[47] Wai Jiao bu nan hai zhu dao dang an hui
bian [Ngoại giao bộ Nam Hải chư đảo
đương án hội biên], Vol. 1, Taipeh, 1995, p. 47-49. Trích dẫn trong
François-Xavier Bonnet, Geopolitics of Scarborough Shoal. Discussion
Paper #14. IRASEC (Research Institute on Contemporary Southeast Asia),
Bangkok. November 2012
[48] Xem Ministry of Foreign Affairs, “Nansha
Qundao [南沙群島, or the “Spratly Archipelago”],” The
Historical Archives of the Department of Modern History in the Academia Sinica
[Zhongyang Yanjiuyuan Jindaishi Yanjiusuo Dang’an Guancang 中央研究院近代史研究所檔案館藏], file series 019.3/0012, file 031. This ROC
official telegram is dated August 24, 1946. AND Ministry of Foreign Affairs,
“Nansha Qundao [南沙群島, or the “Spratly Archipelago”],” The
Historical Archives of the Department of Modern History in the Academia Sinica
[Zhongyang Yanjiuyuan Jindaishi Yanjiusuo Dang’an Guancang 中央研究院近代史研究所檔案館藏], file series 019.3/0012, file 145-146. This
ROC official telegram is also dated to 1946. The month is unclear.
[49] Chen Keqin, Zhong guo nan hai zhu dao
(Trung Quốc Nam Hải chư đảo) Hainan International Press and Publication Center,
Haikou 1996
[50] A.B. Feuer, Australian Commandos: Their
Secret War Against the Japanese in World War II (Mechanicsburg, Pennsylvania,
2006), Chapter 6.
[51] US Navy Patrol Bombing Squadron 117
(VPB–117), Aircraft Action Report No. 92, available at http://www.fold3.com/image/#302109453.
[52] US Navy, USS Cabrilla Report of 8th War
Patrol, available athttp://www.fold3.com/image/#300365402.
P.V.S.
No comments:
Post a Comment