03.12.2014
Thời 1954-75, các
nhà thơ ở miền Nam, với những mức độ khác nhau, đều
hoài nghi, hơn nữa, phủ nhận toàn bộ những nền tảng
ý thức hệ và thẩm mỹ trên đó Thơ Mới thời
1932-45 được xây dựng.
Trước
hết là hình ảnh nhà thơ như một cái tôi cá thể.
Không
còn nghi ngờ gì nữa, khí quyển văn hoá của thơ miền
Nam vẫn là bầu khí quyển của chủ nghĩa cá nhân. Có
điều, nếu chủ nghĩa cá nhân trong giai đoạn 1932-45 là
một thứ chủ nghĩa cá nhân đầy tự tin và tự hào một
cách ngây thơ thì chủ nghĩa cá nhân trong giai đoạn
1954-75, sau những năm kháng chiến hào hùng, khốc liệt,
đầy ngang trái và đầy cay đắng, trở thành “phải
chăng” hơn: cái “tôi” cá thể được hiểu như một
cái riêng chứ không phải là một cái khác, càng không
phải là một cái gì lớn lao, tuyệt đối. Nhà thơ không
còn là “con
chim đến từ núi lạ”
(Xuân Diệu) mà chỉ là “một
con chim bói cá / lặn tìm vuông đời mình”
(Du Tử Lê), không còn đi những bước đi đặc dị:
“Chân
mình vẫn lạc dấu nghìn chân”
(Trần Huyền Trân) mà chỉ muốn hoà hoãn với cuộc đời:
“Tôi
bây giờ sống thu thân / Sống cam phận nhỏ chia phần an
vui”
(Nhã Ca); không còn khệnh khạng: “Tôi:
thù nhân của Số Nhiều”
(Vũ Hoàng Chương) mà ý thức rất rõ trong cái riêng của
mình có cái chung của nhân loại: “Tôi
là một người là một đám đông”
(Tô Thuỳ Yên).
Trước,
nhà thơ tự coi mình như một kẻ có phẩm chất đặc
biệt và cao cả, khác hẳn phàm trần, không thể có tri
âm giữa trần, nên chỉ trò chuyện với vũ trụ, với
trăng sao. Nay, ngược lại, nói như Thanh Tâm Tuyền,
“người làm thơ... chỉ là tên ăn mày lẩn giữa đám
đông khốn cùng với một mẩu tự do còn sót lại” (1)
Chỗ đứng của nhà thơ là ở “giữa lòng cuộc đời”,
như nhan đề một tập thơ của Quách Thoại. Thơ Thanh
Tâm Tuyền: “Mỗi
hoàng hôn tôi bước cùng đám đông / lòng khẩn cầu
cách mạng”;
thơ Tô Thuỳ Yên: “Tôi
ra giữa công trường cất tiếng kêu oan”.
Thấp
thoáng đâu đó, trong những câu thơ vừa dẫn, có chút
ảnh hưởng của thơ thời kháng chiến chống Pháp chăng?
Có thể. Chỉ có điều khác là: các nhà thơ kháng chiến,
ngay cả trong những năm đầu, thường chỉ đứng trong
đội ngũ. Còn các nhà thơ sau này lại đứng giữa cuộc
đời, cái cuộc đời được thu gọn lại vào một biểu
tượng: đám đông. Ở trong đội ngũ thì cần đồng
phục. Ở giữa cuộc đời thì không.
Hơn
nữa, cái tôi cảm xúc cũng không còn giữ được vị
thế uy nghi như trước. Trong phong trào Thơ Mới, các nhà
thơ coi sự đa cảm và nhạy cảm là đặc sản của
những thiên tài nên cố sức phô bày cảm xúc trong thơ.
Ai cũng muốn khoe khoang, như Tế Hanh: “Tôi
là triệu phú rất nhiều yêu”,
như Nguyễn Bính: “Tôi
như một kẻ sa lầy trong yêu”,
như Xuân Diệu: “Tôi
không biết, không biết gì nữa cả / Chỉ yêu nhiều là
tôi biết mà thôi”.
Có điều, bị chi phối bởi quan điểm thẩm mỹ chỉ
coi là đẹp những gì nhẹ nhàng thơ mộng, cảm xúc của
họ, do đó, cũng dừng lại ở mức độ nhẹ nhàng và
thơ mộng. Yêu, thường chỉ là yêu thầm. Nhớ, thường
chỉ là nhớ xa xôi. Buồn, thường chỉ là buồn vô cớ.
Cái dằn vặt của Vũ Hoàng Chương, cái khắc khoải của
Thâm Tâm, của Trần Huyền Trân, cái phẫn uất của
Nguyễn Vỹ, cái thống thiết của Chế Lan Viên, của Hàn
Mặc Tử, một phần không nhiều so với toàn cảnh Thơ
Mới, phần khác, quan trọng hơn, tất cả đều bị dịu
lại, đằm xuống vì những điệu thơ có vần, có nhịp,
mềm mại và ngân nga. Cảm xúc trong Thơ Mới, do đó, dần
dần bộc lộ nhiều khuyết điểm rõ rệt: trước hết
là đơn điệu, sau nữa, cùng với những cơn địa chấn
dữ dội của đất nước, của lịch sử, trở thành giả
tạo. Tâm hồn con người không còn thanh bình và êm ả
như xưa. Trên khắp đất nước đang ầm ầm lửa đạn,
trong khắp thành phố đang ầm ầm những tiếng động
cơ: chiến tranh và xu hướng đô thị hoá gấp gáp khiến
cho tâm hồn con người cũng nổi gió, nổi bão. Ý thức
thẩm mỹ ở cả hai miền đều đổi khác. Nói như Bùi
Giáng, “chúng ta đứng trước những phong ba, linh hồn
chúng ta mang những ưu tư khắc khoải. Thơ trữ tình, thơ
yêu đương vớ vẩn nhớ nhung kia [tức Thơ Mới], chúng
ta bỏ trôi mất hút, không một chút bận tâm.” (2)
Gắn
liền với sự khắc khoải, cảm xúc thường bị đẩy
đến mức cực đoan. Người ta không còn thầm thì than
thở nữa. Hoặc người ta chịu đựng hoặc người ta
gào thét. Chịu đựng thì như trường hợp của Quách
Tấn: đối diện với sự bất hạnh, ông không khóc, ông
không nói; mọi cảm xúc đều bị ghìm nén lại; “nhất
nhất cái gì cũng quạnh quẽ, hiu hắt, tịch mịch”
(3). Gào thét thì như trường hợp Thanh Tâm Tuyền: “Tôi
không ca ngợi tình yêu, tôi nguyền rủa tình yêu. Mỗi
tiếng, mỗi lời viết ra tôi đều thấy nó chứa đựng
những hận thù, khinh bỉ, dày vò, đớn đau, tuyệt vọng,
nhơ nhuốc, dối trá, hằn học, trơ trẽn, bệnh hoạn,
xấc láo, tàn bạo, cục cằn, tủi hổ, yếu đuối, bất
lực, chết chóc nghĩa là tất cả những thứ mà tình
yêu loại trừ.” (4)
Đằng
sau những lời lẽ ít nhiều có tính cường điệu ấy,
có một sự thật mà Thanh Tâm Tuyền đã nhạy bén
phát hiện ra được: tâm hồn con người đã thay đổi
hẳn. Rải rác trong nhiều bài viết khác nhau, Võ Phiến đã
phân tích những sự thay đổi ấy. Ông gọi thế hệ
1954-75 ở miền Nam là “thế hệ sỗ sàng”: “sỗ
sàng, thẳng thừng, cynique, khinh mạn, phũ phàng v.v...,
hàng loạt những tiếng như thế thường được dùng để
chỉ định thái độ của thế hệ này” (5). Bất cứ
thái độ nào được miêu tả ở trên cũng đều xuất
phát từ ý thức hơn là từ cảm xúc.
Ở
miền Nam, trong bài “Nhân nghĩ về hội hoạ”, viết
năm 1956, Thanh Tâm Tuyền lên tiếng chống lại chủ
nghĩa tình cảm trong văn học nghệ thuật:
“Tôi
cho không có cái định nghĩa văn chương nghệ thuật nào
ấu trĩ hơn là cái định nghĩa này: văn chương nghệ
thuật là sự phô diễn những xúc động ở trong lòng
của con người. Định nghĩa ấy dẫn đến trong hội
hoạ, hoạ phái trừu tượng vô hình dung, trong văn
chương, một thứ văn chương lải nhải tình cảm
(sentimentalisme) - dù là tình cảm lành mạnh đi lên và gì
gì nữa - Nghệ thuật là hành động siêu việt hoá con
người trong chính đời sống thực của nhân loại. Những
tác phẩm tầm thường là những tác phẩm chịu trói
trong những cái vụn vặt tủn mủn hời hợt của đời
sống.” (6)
Trước
đó một năm, năm 1955, trong bài “Nỗi buồn trong thơ
hôm nay”, Thanh Tâm Tuyền miêu tả chân dung nhà thơ
mới: “hắn bước sâu vào ý thức thăm thẳm muốn xô
động tới những giới hạn siêu hình.” (7)
Có
thể nói: trung tâm của Thơ Mới là cái tôi cảm
xúc; trung tâm của thơ sau 1954, đặc biệt ở miền Nam,
là cái tôi ý thức. Nếu Thơ Mới được xây dựng trên
sự dào dạt của cảm xúc thì thơ sau 1954 được xây
dựng trên sự khắc khoải, sự dằn vặt của ý thức.
Các nhà Thơ Mới đặt mình chủ yếu trong mối quan hệ
với thiên nhiên, với gia đình, bạn bè, người yêu để
lắng nghe và ghi nhận những tiếng động khẽ khàng
trong hồn mình; các nhà thơ sau 1954 đặt mình chủ yếu
trong mối quan hệ với lịch sử, với thân phận con
người nói chung để nhận diện những cơn lốc khốc
liệt trong hồn mình và trong đời mình. Các nhà Thơ Mới
nỗ lực tạo dựng, bằng hoài niệm hoặc bằng mơ ước,
một thế giới khác lúc nào cũng bềnh bồng trong sương
khói và thoang thoảng chút hương hoa; các nhà thơ sau 1954
chỉ bận tâm với việc thám hiểm vào chính cái cuộc
đời họ đang sống, cái núi lửa đang thiêu đốt họ.
Các
nhà Thơ Mới chấp nhận cuộc đời bằng thái độ ung
dung tự tại và phần nào thoả mãn của họ nhưng quay
lưng lại với cuộc đời bằng những giấc mộng miên
man về một cõi vô biên nào đó; các nhà thơ sau 1954 từ
chối tính chất đương nhiên của cuộc đời bằng những
phản kháng, những giãy giụa gào thét nhưng lại chấp
nhận đối diện cuộc đời như một thực tại không
thể tránh khỏi và như một đối tượng cần đào sâu
của ý thức, từ đó, của chính thơ ca.
Những
sự khác biệt trên dẫn đến những sự khác biệt khác
có ý nghĩa quyết định: trong khi các nhà Thơ Mới làm
thơ như những thi sĩ, nghĩa là những kẻ đang sống
trong thế giới của cái đẹp, của mộng mơ, các nhà
thơ sau 1954 làm thơ như những người thường không phải
là thi sĩ, nghĩa là những kẻ đang sống giữa thế giới
đầy bão bùng, đầy bụi bặm của hiện thực. Các nhà
Thơ Mới quan niệm nhà thơ là những kẻ sáng tạo, một
thứ tạo hoá con con; các nhà thơ sau 1954 quan niệm nhà
thơ chỉ là người hục hặc tra vấn cuộc đời và tâm
hồn mình, người đi lượm nhặt những mảnh vỡ trong
nhận thức và trong cảm xúc để lắp ghép, tô bồi lại
thành một tác phẩm nghệ thuật.
Các
nhà Thơ Mới luôn luôn cô độc; các nhà thơ sau 1954, như
Thanh Tâm Tuyền khẳng định, “[Tôi] không còn cô
độc” nữa. Họ đồng nhất họ với thân phận con
người nói chung, do đó, họ đỡ bơ vơ hơn, đỡ lạc
loài hơn, nhưng ngược lại, họ lại bị dày vò hơn và
nhiều đau đớn hơn: họ phải gánh cái gánh nặng của
cả nhân loại. Nhã Ca buồn, trước hết, cũng buồn
vì là... con gái: “Tôi
làm con gái / Buồn như lá cây”;
tự hào, trước hết, cũng tự hào vì là... đàn bà:
“Tôi
sẽ mát như trăng nhưng cũng nóng hơn lửa /... Bởi tôi
là đàn bà”.
Vũ Hoàng Chương không còn cay đắng vì, cùng với
một ít người khác, do tài hoa cao ngất, độc đáo,
không ai hiểu được, “bị
quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh”
mà não nề vì sự bế tắc trong khả năng nhận thức
của con người: “Dấu
hỏi (?) vây quanh trọn kiếp người / Sên bò nát óc máu
thầm rơi”.
Quách Thoại làm thơ là để “nói
lời thơ đời nhân loại đau thương”.
Nguyên Sa mang trong lòng cả nỗi buồn của thế kỷ:
“Thế
kỷ chúng tôi trót buồn trong mắt / Dăm bảy nụ cười
không đủ xoá ưu tư”.
Bùi Giáng mang trong lòng cả cái lạnh của kiếp nhân
sinh: “Phiêu
bồng sáu cõi thu trôi / Ngàn mưa nhỏ giọt trang đời
lạnh ghê”.
Việc dẫn chứng có thể kéo dài vô tận. Dĩ nhiên người
ta có thể nêu ra một số nhà thơ khác, ở miền Nam,
không bị quằn quại về vấn đề số phận. Như trường
hợp của Phạm Thiên Thư, người được Võ Phiến nhận
xét là “giữa một thời ác liệt đầy âm thanh và
cuồng nộ, ông giữ được quân bình an lạc trong tâm
hồn” (8). Có thể. Nhưng chỉ trong vài bài thơ của
Phạm Thiên Thư được Võ Phiến tuyển, tôi ngạc nhiên
bắt gặp hai câu này:
nay
áo đã cuốn về thiên cổ
lá vàng bay lạnh nỗi niềm không
(Áo thu)
lá vàng bay lạnh nỗi niềm không
(Áo thu)
Lạnh.
Nỗi niềm không. Chiếc lá như một kiếp người. Nó
khác biết bao với chiếc “lá
vàng trước gió sẽ đưa vèo”
trong thơ Nguyễn Khuyến, những chiếc lá vàng, lá hồng
từ tường bắc sang tường đông trong thơ Tản Đà,
chiếc lá mơ rơi giữa rừng mơ trong thơ Nguyễn Bính.
Tất cả những chiếc lá ấy, buồn có buồn, nhưng chỉ
là nỗi buồn hiu hắt. Như một nỗi ngẩn ngơ. Thế
thôi.
Cho
nên, có thể nói, ở miền Nam, nhà thơ có tài nào, không
nhiều thì ít, cũng bị ảnh hưởng bởi những băn
khoăn, những khắc khoải siêu hình.
***
Chú
thich:
- Thanh Tâm Tuyền (1955), “Nỗi buồn trong thơ hôm nay”, in trên Sáng Tạo số 31 (9.1959), tr. 1-6; sau, in lại trên Giai phẩm Văn (Saigon) số tháng 11.1973 (số đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền), tr. 64-71; in lại trong Bốn mươi năm thơ Việt Nam 1945-1985 của Thi Vũ, Quê Mẹ, Paris, 1993, tr. 274-280.
- Bùi Giáng (1969), Thi ca tư tưởng, Ca Dao, Saigon, tr. 33.
- Võ Phiến (1990), “Thế cuộc”, Làng Văn số 71 (7.90), tr. 41.
- Thanh Tâm Tuyền (1955), bđd.
- Võ Phiến (1994), “Thơ tình Trần Dạ Từ”, Thế Kỷ 21 số 61 (5.94), tr. 59.
- Thanh Tâm Tuyền (1956), “Nhân nghĩ về hội hoạ”, in lại trên Giai phẩm Văn số tháng 11.1973, tr. 74.
- Thanh Tâm Tuyền (1955), bđd.
- Võ Phiến (1991), Thơ miền Nam, tập 1, Văn Nghệ, California, tr. 60.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
.
---------------------
.
HỘI
THẢO VỀ VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975
.
Ðinh
Quang Anh Thái/Người Việt
Tuesday,
December 02, 2014 7:25:10PM
.
Người
Việt Books tái bản, 2014
Thứ Năm, ngày 27 tháng 11 năm 2014
.
Nguyễn
Hưng Quốc Thứ Bảy, ngày 29 tháng 11
năm 2014
.
Đinh
Quang Anh Thái/Người Việt (thực hiện) Wednesday, November
26, 2014 3:00:42 PM
.
.
Tiểu
Muội (thực hiện) Thứ Sáu, ngày 21 tháng 11 năm
2014
.
Phỏng
vấn nhà văn Trịnh
Thanh Thủy về Văn Học Miền Nam 1954 – 1975
Kalynh
Ngô/Người Việt (thực hiện) 22.11.2014
.
No comments:
Post a Comment