Lê Hồng Hiệp - Nghiên Cứu Quốc Tế
Posted
on 28/12/2014 by The Observer
Trong
năm 2014, sự kiện nổi bật nhất của ngành đối ngoại Việt Nam có lẽ chính là cuộc
đấu tranh xung quanh sự kiện giàn khoan Hải Dương 981. Việc Trung Quốc cuối
cùng phải rút giàn khoan ở một chừng mực nào đó có thể coi là một thành công đối
với Việt Nam, nhưng đó cũng là một thách thức còn để ngỏ khi hàng loạt câu hỏi
vẫn chưa có lời đáp: Liệu Trung Quốc có tái diễn vụ giàn khoan, nếu có thì ở
đâu, và nếu không thì Trung Quốc sẽ có hành động gì trên Biển Đông? Quan trọng
hơn, Việt Nam cần phải xử lý mối quan hệ với Trung Quốc ra sao trong bối cảnh rộng
lớn hơn là các sóng ngầm địa chính trị khu vực đang diễn biến ngày càng phức tạp?
Bài
phân tích này sẽ cố gắng trả lời các câu hỏi trên. Tuy nhiên, trước khi đi vào
vấn đề chính là quan hệ Việt – Trung, chúng ta cần điểm lại một số nét chính
trong tình hình các quốc gia chủ chốt cũng như bối cảnh địa-chính trị khu vực,
những yếu tố vốn có tác động quan trọng tới cục diện quan hệ song phương.
Bối cảnh các quốc gia chủ chốt
Trung
Quốc
Sau
hơn 3 thập niên phát triển liên tục với tốc độ 2 con số, hiện nay tăng trưởng
kinh tế Trung Quốc đang chững lại ở mức khoảng 7%/năm với nhiều khó khăn chồng
chất như mô hình tăng trưởng cũ hết động lực, cơ cấu và xu hướng dân số bất lợi,
các rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống tài chính – ngân hàng và thị trường nhà đất…
Điều này đặt ra những thách thức lớn cho tính chính danh và vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).
Một
mặt, thực tế này yêu cầu Trung Quốc phải tiến hành cải cách cơ cấu nền kinh tế
theo hướng từ bỏ mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư và xuất khẩu sang dựa trên
tiêu dùng trong nước và sức sáng tạo của các doanh nghiệp, thể hiện qua các biện
pháp đề ra tại Hội nghị TW 3 năm 2013. Mặt khác, Trung Quốc cũng tiến hành cuộc
chiến chống tham nhũng mạnh mẽ, vừa giúp củng cố quyền lực của tân Chủ tịch Tập
Cận Bình, vừa giúp loại bỏ các rào cản, các nhóm lợi ích gây cản trở cải cách
kinh tế, đồng thời giúp nâng cao uy tín của Đảng trong bối cảnh trụ cột chính
trong tính chính danh của Đảng là thành tích phát triển kinh tế đang gặp khó
khăn.
Về
đối ngoại, Trung Quốc đã thoát ra ngoài tư thế “giấu mình chờ thời”, bắt đầu
công khai và mạnh mẽ cạnh tranh vị thế và ảnh hưởng với Hoa Kỳ trong khu vực và
trên thế giới, thể hiện qua các sáng kiến như “con đường tơ lụa thế kỷ 21”,
“con đường tơ lụa trên biển”, ý tưởng “châu Á là của người châu Á”, hay việc
thành lập Ngân hàng Phát triển Mới với nhóm BRIC…
Trong
quan hệ với Mỹ, Trung Quốc đề xướng mô hình “quan hệ cường quốc kiểu mới” nhằm
thuyết phục Mỹ không “ngăn chặn” Trung Quốc vươn lên, vừa nhằm đạt được vị thế
ngang hàng với Mỹ, qua đó phân chia khu vực ảnh hưởng với Washington. Bên cạnh
đó, Trung Quốc cũng tỏ ra hung hăng và cứng rắn hơn trong các tranh chấp biển
và lãnh thổ với láng giềng, mà ví dụ tiêu biểu là vụ giàn khoan 981. Điều này vừa
phù hợp với xu thế chung trong chính sách đối ngoại của chính quyền Tập Cận
Bình, vừa có tác dụng giương cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc để củng cố sự ủng hộ
của người dân trong bối cảnh tính chính danh trong nước của ĐCSTQ ngày càng bị
thách thức.
Trong
năm tới Trung Quốc có thể thực hiện “ngoại giao hòa hoãn” do e dè trước phản ứng
của cộng đồng quốc tế sau vụ giàn khoan 981 và lo sợ các nước trong khu vực sẽ
nghiêng về phía Mỹ, đi ngược lại mục tiêu lớn của Trung Quốc. Tuy nhiên, trong
dài hạn, với việc Trung Quốc từ bỏ chính sách “giấu mình chờ thời” để theo đuổi
tham vọng siêu cường, kết hợp với khó khăn trong nước nhiều khả năng sẽ ngày
càng nghiêm trọng, xu thế hung hăng, lấn lướt của Bắc Kinh trong chính sách đối
ngoại, đặc biệt là trên vấn đề Biển Đông, nhiều khả năng sẽ còn tiếp diễn.
Nhật
Bản
Sau
khi quay lại làm thủ tướng năm 2012, ông Shinzo Abe đã tiến hành nhiều cải cách
kinh tế và chính trị quan trọng. Về kinh tế ông Abe đã tiến hành chính sách
Abenomics, với ba “mũi tên” gồm kích thích tài khóa, nới lỏng tiền tệ và cải
cách cơ cấu. Tuy nhiên sau khi phát huy hiệu quả vào năm 2013 với việc kinh tế
Nhật tăng trưởng 1,5%, thì sang năm 2014 chính sách này đã bị “hụt hơi” khi nền
kinh tế bị co lại 2%, trong đó một nguyên nhân chủ yếu được đánh giá là việc
chính quyền Abe tăng thuế tiêu dùng quá sớm (vào tháng 4/2014) từ mức 5% lên
8%,[1]
khiến lòng tin của người tiêu dùng sụt giảm, tác động tiêu cực tới phục hồi
kinh tế.
Trong
bối cảnh đó, ông Abe đã tuyên bố giải tán quốc hội vào tháng trước và tổ chức bầu
cử sớm vào ngày 14/12 vừa qua. Kết quả Đảng Dân chủ Tự do (LDP) đã tiếp tục giành
thắng lợi áp đảo,[2]
qua đó giúp củng cố và kéo dài tuổi đời chính trị của ông Abe, giúp ông có nhiều
thời gian hơn để tiếp tục thực hiện chính sách Abenomics cũng như các thay đổi
về chính sách đối ngoại.
Về
chính sách đối ngoại, điểm tiêu biểu trong thời gian qua là chính quyền Abe đã
diễn dịch lại hiến pháp để cho phép quân đội Nhật có vai trò lớn hơn. Cụ thể hiến
pháp Nhật sau khi được diễn dịch lại đã cho phép Nhật tham gia phòng thủ tập thể
ở những nơi lợi ích của Nhật bị đe dọa, đồng thời mở đường cho quân đội Nhật
đóng vai trò quốc tế lớn hơn (nhất là trong sứ mệnh hỗ trợ nhân đạo).
Ngoài
ra, mặc dù Nhật tiếp tục đề cao hợp tác quân sự với Mỹ thông qua liên minh Mỹ –
Nhật, nhưng chính quyền Abe muốn tự chủ lớn hơn và bớt phụ thuộc hơn vào Mỹ về
quốc phòng. Dưới thời Abe, Nhật cũng thể hiện xu hướng cứng rắn hơn với Trung
Quốc, như quốc hữu hóa quần đảo Senkaku, phản đối và tảng lờ Khu vực nhận diện
phòng không (ADIZ) của Trung Quốc thiết lập trên biển Hoa Đông… Nhật cũng
tích cực hỗ trợ Philippines và Việt Nam về ngoại giao và an ninh, trong đó tiêu
biểu là viện trợ các tàu tuần tra cho Hà Nội và Manila. Dù quy mô viện trợ còn
hạn chế do bản thân Nhật cũng đang cần các nguồn lực để đối phó với Trung Quốc
trên biển Hoa Đông, nhưng nó cho thấy xu thế ngày càng cứng rắn của Nhật đối với
Trung Quốc.
Nay
với việc Abe tiếp tục khởi đầu một nhiệm kỳ mới, các chính sách đối ngoại và an
ninh mạnh mẽ của ông sẽ hầu như chắc chắn được duy trì và thúc đẩy, đưa Nhật
tái trỗi dậy thành một cường quốc “bình thường” với sức ảnh hưởng đồng thời cả
về kinh tế lẫn quân sự trong khu vực và trên thế giới.
Nga
Sau
khi phạm sai lầm vì đã vội vàng sáp nhập Crimea, nước Nga của Putin đã phải vật
lộn trong khó khăn để đương đầu với các lệnh trừng phạt của phương Tây, bên cạnh
các khó khăn kinh tế chồng chất do giá dầu thế giới giảm và tình trạng rớt giá
của đồng Rúp.
Ngoài
ra, do bị phương Tây cô lập nên Nga đã tìm cách thắt chặt quan hệ với Trung Quốc,
dẫn tới một số lo ngại rằng Trục Bắc Kinh – Moscow sẽ được hình thành nhằm giúp
2 nước đối phó với các áp lực từ Mỹ và phương Tây. Tuy nhiên, nhiều nhà phân
tích, bao gồm cả các quan chức Mỹ, đều cho rằng giữa hai nước vẫn còn những
khác biệt lớn về sự quan tâm, mục tiêu, lợi ích… nên sự gần gũi gia tăng giữa
hai nước thời gian qua chủ yếu mang tính chiến thuật chứ không phải là một liên
minh chiến lược lâu dài.
Trong
bối cảnh đó, mối bận tâm chính của chính quyền Putin trong thời gian qua cũng
như sắp tới chủ yếu là vấn đề Ukraine và quan hệ với phương Tây chứ không phải
khu vực Thái Bình Dương. Cụ thể, trước áp lực của phương Tây, khó khăn kinh tế
chồng chất và nhất là địa vị “thân cô thế cô”, Nga nhiều khả năng sẽ phải nhún
nhường, tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Đông Ukraine và Crimea để dần dần
bình thường hóa quan hệ với phương Tây. Tuy nhiên điều này sẽ không đến sớm nếu
Tổng thống Putin tiếp tục cầm quyền. Vì vậy, xu hướng chính sách đối ngoại Nga
trong thời gian tới sẽ phụ thuộc vào diễn biến chính trị trong nước của Nga, đặc
biệt là vị thế của Tổng thống Putin.
Hoa
Kỳ
Trái
với các quan điểm bi quan cho rằng Mỹ đang trượt dài vào thời kỳ suy thoái, sức
mạnh kinh tế và quyền lực quốc gia nói chung của Hoa Kỳ vẫn được duy trì và
thúc đẩy. Cụ thể, mặc dù một vài ước tính cho rằng GDP tính theo sức mua tương
đương (PPP) của Trung Quốc đã vượt Mỹ trong năm nay, ưu thế về sức năng động –
sáng tạo, trình độ công nghệ, sự áp đảo của các công ty đa quốc gia, sự vượt trội
về GDP tính theo đầu người… về cơ bản vẫn giúp cho Hoa Kỳ duy trì được khoảng
cách xa về kinh tế so với Trung Quốc.
Trong
khi triển vọng kinh tế Trung Quốc bắt đầu có dấu hiệu ảm đạm, thì kinh tế Mỹ vẫn
tăng trưởng 2,3% năm 2012, 2,2% năm 2013, và dự kiến đạt 2,5%
năm 2014, trong khi tỉ lệ thất nghiệp tới tháng 10/2014 đã giảm xuống chỉ
còn 5,8%, mức thấp nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và thấp
hơn đáng kể so với hầu hết các nước công nghiệp phát triển.
Một
đặc điểm nổi bật của kinh tế Mỹ được nhiều người đánh giá cao trong thời gian gần
đây là việc ngành sản xuất dầu lửa của nước này đã phát triển mạnh nhờ vào công
nghệ khai thác dầu đá phiến (shale). Cụ thể, chỉ trong vòng năm năm, công nghệ
này đã đưa sản lượng dầu của Mỹ tăng gần gấp đôi từ mức 5 triệu thùng/ngày năm 2008 lên 9 triệu thùng
vào năm nay.
Nếu
xu hướng này tiếp tục thì đến khoảng năm 2020 Mỹ có thể vượt Arab Saudi trở
thành nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới. Việc ngành sản xuất dầu phát triển mạnh
không chỉ mang lại sự thịnh vượng và tạo công ăn việc làm cho người Mỹ mà còn
mang lại cho Mỹ một vũ khí địa chính trị lợi hại, đặc biệt là giúp Mỹ có thể giảm
bớt sự chú ý vào khu vực rốn dầu Trung Đông để tập trung vào các khu vực khác.
Về
đối ngoại và quân sự, Hoa Kỳ đang giảm dần sự can dự vào khu vực Trung Đông, một
phần do sự “mệt mỏi chiến lược” vì những can dự kéo dài nhưng kém hiệu quả ở
khu vực này kể từ sau sự kiện 11/9/2001, một phần do tầm quan trọng chiến lược
của khu vực có xu hướng giảm sút trong mắt Washington.
Trong
khi vẫn phối hợp với EU và các đồng minh trong các vấn đề như Ukraine hay không
kích Nhà nước Hồi giáo, Mỹ sẽ tập trung nhiều sự chú ý hơn vào khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương, nhất là sự trỗi dậy của Trung Quốc, bởi chính Trung Quốc sẽ là
vấn đề “sống còn”, là đối thủ duy nhất đủ tầm để có thể lật đổ vị thế siêu cường
của Mỹ cũng như trật tự thế giới mà Mỹ dẫn dắt. Trong bối cảnh đó, Mỹ sẽ tiếp tục
duy trì chính sách “tái cân bằng” sang khu vực, đồng thời thúc đẩy việc gắn kết,
tăng cường sức mạnh của các nước đồng minh và đối tác, biến họ trở thành các quốc
gia giàu mạnh và thực sự độc lập để có thể giúp hạn chế bớt ảnh hưởng của Trung
Quốc, đồng thời giúp Mỹ có được vị thế tốt hơn nhằm đối phó với sự trỗi dậy
ngày càng không êm ả của Bắc Kinh.
Xu hướng địa chính trị khu vực
Một
xu hướng địa chính trị khu vực đang ngày càng trở nên nổi trội, đó chính là việc
Mỹ cùng các đồng minh ngày càng bất an trước sự trỗi dậy của Trung Quốc và việc
nước này công khai thách thức trật tự khu vực, nhất là vị thế siêu cường dẫn đầu
của Mỹ. Xu hướng này khiến cho khu vực nhiều khả năng sẽ bước vào một cuộc Chiến
tranh Lạnh mới trong vòng khoảng 20 năm tới.
Về
mặt lý thuyết, nếu Trung Quốc tiếp tục trỗi dậy và thách thức Mỹ, mâu thuẫn và
xung đột giữa hai cường quốc là không thể tránh khỏi. Trái với thuyết “cân bằng
quyền lực” (balance of power theory) cho rằng hệ thống quốc tế sẽ ổn định và
hòa bình khi đạt được sự cân bằng giữa các trung tâm quyền lực chính, thuyết
“chuyển giao quyền lực” (power transition theory) cho rằng một khi một cường quốc
đang lên tiệm cận sức mạnh của cường quốc thống trị và khao khát giành vị thế
bá chủ của cường quốc đó thì xung đột giữa hai bên là không thể tránh khỏi. Chỉ
sau khi cường quốc đang lên bị kiềm chế hoặc đánh bại (giữ vững nguyên trạng)
hoặc cường quốc bá chủ bị lật đổ (thiết lập nguyên trạng mới) thì hệ thống quốc
tế mới lại đạt được thế cân bằng và ổn định. Quy luật này đã được chứng minh
nhiều lần trong lịch sử, và sẽ tiếp tục là logic trường tồn của chính trị hiện
thực trong quan hệ quốc tế.
Về
mặt thực tế, hiện nay cục diện địa chính trị khu vực đang dần đi theo hướng dự
báo của thuyết “chuyển giao quyền lực”. Cụ thể, trong khi Trung Quốc (cường quốc
đang lên) tìm cách mở rộng ảnh hưởng, tranh giành quyền lực với Mỹ (cường quốc
thống trị), thì Mỹ đang âm thầm cố gắng tìm cách kiềm chế Trung Quốc, thông qua
các chiến lược tiêu biểu như “tái cân bằng” quân sự sang tây Thái Bình Dương,
đàm phán Hiệp định TPP với các nước trong khu vực mà không có sự tham gia của
Trung Quốc; cải thiện và thắt chặt quan hệ với các nước đồng minh và đối tác,
nhất là các nước láng giềng Trung Quốc; sử dụng các công cụ như luật pháp quốc
tế và các thể chế quốc tế để kiềm chế và điều chỉnh hành vi của Bắc Kinh….
Hiện
nay, giới chức Mỹ vẫn đang cố gắng thận trọng, tránh “tư duy Chiến tranh lạnh”,
trong khi cố gắng can dự với Trung Quốc để xây dựng lòng tin, giảm căng thẳng.
Tuy nhiên đây không phải là xu hướng lâu dài mà chỉ là ngắn hạn. Trước mắt Mỹ
chưa sẵn lòng mạnh tay kiềm chế Trung Quốc như từng kiềm chế Liên Xô trước đây
bởi quan hệ tốt với Trung Quốc đang mang lại cho Mỹ nhiều lợi ích, đồng thời Mỹ
cần thêm thời gian để đánh giá xu hướng hành vi của Trung Quốc khi hiện nay Bắc
Kinh dù có biểu hiện hung hăng và thách thức lợi ích của Mỹ nhưng sự thách thức
đó chưa đủ lớn để đe dọa các lợi ích sống còn, nhất là vị thế bá chủ của Mỹ.
Vì
vậy trong tương lai, mức độ kiềm chế của Mỹ và đồng minh đối với Trung Quốc sẽ
biến chuyển tùy theo mức độ hung hăng và thách thức mà Trung Quốc theo đuổi
trong chính sách đối ngoại của mình. Ngoài ra, về phía Mỹ, nếu trong cuộc bầu cử
tổng thống năm 2016 một ứng cử viên Cộng hòa đắc cử thì nhiều khả năng Mỹ sẽ có
một chính sách đối ngoại cứng rắn hơn, nhất là trong quan hệ với Trung Quốc.
Mặc
dù có một khả năng là Trung Quốc do các vấn đề trong nước sẽ bị chững lại, thậm
chí rối loại và suy yếu, không thể đủ sức “trỗi dậy” mãi mãi đủ để đe dọa vị thế
của Mỹ, nhưng khả năng cao hơn là Trung Quốc sẽ tiếp tục vươn lên, dù chậm dù
nhanh, để làm cho Mỹ và đồng minh cảm thấy bất an, lo sợ. Khi đó, một cuộc Chiến
tranh lạnh Mới ở khu vực, như đã nói trên, là khó có thể tránh khỏi. Cuộc Chiến
tranh lạnh Mới giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ khác với cuộc Chiến tranh lạnh thế kỷ
20 giữa Mỹ và Liên Xô ở 4 điểm chính:
·
Chiến lược chứ không phải ý thức hệ: Cuộc cạnh tranh giữa
Mỹ và Trung Quốc chủ yếu tập trung vào yếu tố lợi ích chiến lược chứ không phải
ý thức hệ. Việc tập hợp lực lượng của hai bên sẽ dựa vào điểm đồng về lợi ích
chiến lược chứ không phải ý thức hệ. Đây là đặc điểm chi phối 3 đặc điểm còn lại.
·
Ở cấp độ khu vực chứ không phải toàn cầu: Cuộc Chiến tranh lạnh
này sẽ tập trung chủ yếu tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương mà ít có khả năng
lan rộng ra toàn cầu bởi Trung Quốc không có một hệ thống đồng minh rộng lớn và
lợi ích của Mỹ và Trung Quốc không mâu thuẫn lớn ở các khu vực khác.
·
Không phải giữa 2 khối nước cứng nhắc: Khác với Chiến tranh
lạnh giữa Mỹ và Liên Xô khi hai bên dẫn đầu hai khối nước trải khắp 5 châu thì
trong Chiến tranh lạnh mới sự đối đầu tập trung chủ yếu vào quan hệ giữa Trung
Quốc và Mỹ. Nga, như đã nói ở trên, ít có khả năng tham gia cùng Trung Quốc
thành một khối chiến lược để đối đầu với Mỹ và đồng minh.
·
Vai trò của tương thuộc kinh tế: Khác với Chiến tranh
lạnh thế kỷ 20, trong cuộc Chiến tranh lạnh mới, sự tương thuộc kinh tế giữa Mỹ
và Trung Quốc sẽ giúp kiềm chế bớt hành vi của hai bên, giúp hai bên dễ đối thoại
với nhau để giải quyết bất đồng. Tuy nhiên do lợi ích địa chính trị được coi trọng
hơn lợi ích kinh tế nên sự tương thuộc kinh tế sẽ không đủ ngăn cản Chiến tranh
lạnh mới diễn ra. Viễn cảnh khả dĩ nhất là “kinh tế nóng, chính trị lạnh” giữa
các cường quốc.
Vậy
xu hướng địa chính trị khu vực này sẽ tác động như thế nào tới Việt Nam, và Việt
Nam cần phải ứng phó ra sao?
Lựa chọn chiến lược của Việt Nam
“Lời nguyền địa lý” khiến Việt Nam luôn phải đối diện với
những thách thức trong xử lý quan hệ với Trung Quốc. Trước một Trung Quốc lớn mạnh
hơn nhiều lần, chiến lược Trung Quốc truyền thống của Việt Nam là ngoại giao
hòa hiếu, trong đế ngoài vương, nhún nhường với Trung Quốc trong khả năng cho
phép để giữ hòa bình và độc lập.
Nếu
không có tranh chấp Biển Đông thì Việt Nam hiện nay sẽ có điều kiện thuận lợi
hơn nhiều để duy trì một chính sách hòa hiếu cùng mối quan hệ ổn định, tương
kính với Trung Quốc. Thế nhưng, với việc Trung Quốc ngày càng thực hiện các
chính sách hung hăng và cưỡng ép, mà sự kiện Giàn khoan 981 là ví dụ điển hình,
việc duy trì một chính sách ngoại giao hòa hiếu truyền thống như vậy với Trung
Quốc đang ngày càng khó khăn, thậm chí phản tác dụng.
Chính
sách của Việt Nam đối với Trung Quốc hiện đối mặt với hai lựa chọn căn bản: ưu
tiên quan hệ hữu hảo với Trung Quốc hay ưu tiên chủ quyền quốc gia và toàn vẹn
lãnh thổ?
Trong
suốt chiều dài lịch sử đất nước, lựa chọn này luôn được đặt ra cho các nhà cầm
quyền Việt Nam, và câu trả lời luôn rõ ràng: Chủ quyền quốc gia và toàn vẹn
lãnh thổ là lợi ích quốc gia tối thượng. Đã có những lúc Việt Nam tỏ ra hòa hiếu,
nhún nhường với Trung Quốc, nhưng đó là khi Trung Quốc không trực tiếp đe dọa
chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, hoặc sau khi Việt Nam đã
đánh bại các cuộc xâm lược của các đội quân phương Bắc (ví dụ, Lê Lợi cấp thuyền
và ngựa cho lính nhà Minh rút quân về nước, Nguyễn Huệ cho chôn cất tử tế lính
nhà Thanh tử trận, gửi sứ thần sang nhận sắc phong và “tạ tội” với hoàng đế nhà
Thanh…). Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam lại nhún nhường, mềm yếu trước
Trung Quốc khi Trung Quốc tìm cách xâm lược hoặc cưỡng ép, đe dọa… Việt Nam.
Hiện
nay, đương nhiên chúng ta vẫn luôn coi chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ
là lợi ích tối thượng. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần xác định Trung Quốc đang
đe dọa Việt Nam đến mức nào để quyết định nên hòa hiếu, nhún nhường, hay cứng rắn
với Trung Quốc. Nếu mối đe dọa Trung Quốc chưa lớn mà chúng ta quá cứng rắn thì
sẽ gây căng thẳng không cần thiết, ngược lại nếu mối đe dọa lớn mà chúng ta
nhún nhường, mềm yếu sẽ càng khuyến khích Trung Quốc lấn tới, làm phương hại lợi
ích quốc gia.
Trong
thời gian qua, xu hướng mối đe dọa từ Trung Quốc đang gia tăng là rõ ràng. Đặc
biệt trong vấn đề Biển Đông, một loạt các hành động của Trung Quốc từ năm 2007
đến nay càng cho thấy rõ tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc. Các hành
động như cắt cáp tàu Bình Minh 02, đưa giàn khoan 981 cùng lực lượng hộ tống
hùng hổ vào vùng biển Việt Nam, xây dựng và mở rộng đảo nhân tạo… cho thấy cường
độ hung hăng của Trung Quốc ngày càng tăng, và chủ quyền quốc gia và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam trên Biển Đông đang bị đe dọa hơn bao giờ hết.
Trong
tương lai gần, việc Trung Quốc đưa các giàn khoan xuống Trường Sa và bãi Tư
Chính, thiết lập ADIZ trên Biển Đông, tăng cường quân sự hóa các điểm chiếm
đóng, thậm chí tìm cách khống chế các tuyến đường biển của Việt Nam hay xâm lược
các đảo của Việt Nam đang nắm giữ… là những khả năng không thể bị loại bỏ, nếu
không muốn nói đó chỉ là vấn đề thời gian.
Trong
bối cảnh đó, ngoài việc nâng cao nội lực về kinh tế, quốc phòng, xây dựng sự
đoàn kết và đồng thuận trong cũng như ngoài nước, Việt Nam cần tranh thủ tận dụng
các diễn biến địa chính trị khu vực để nâng cao vị thế chiến lược của mình, góp
phần kiềm chế tham vọng của Trung Quốc. Đặc biệt việc mâu thuẫn giữa Mỹ và
Trung Quốc đang dần gia tăng đang tạo cơ hội cho Việt Nam tăng cường quan hệ với
Mỹ và các nước đồng minh và đối tác của Mỹ, nhất là những nước có chung nhận thức
về mối đe dọa và lợi ích trên Biển Đông.
Vì
vậy, như tác giả bài viết từng đề xuất, trong khi vẫn duy trì
nguyên tắc “ba không” trên danh nghĩa, Việt Nam cần từng bước thắt chặt quan hệ
chiến lược – an ninh với các quốc gia chủ chốt trong khu vực dưới dạng các
“liên minh” mềm, không chính thức, đặc biệt là với Hoa Kỳ và Nhật Bản, để có thể
nâng cao vị thế chiến lược của mình trong quan hệ với Trung Quốc, nhất là trên
hồ sơ Biển Đông.
Như
đã lập luận trước đây, tranh chấp Biển Đông hiện tại gồm ba
tầng nấc, với tầng nấc ngoài cùng đang trở nên ngày càng quan trọng là sự cạnh
tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc. Điều này biến Biển Đông trở thành một
trong những “chiến trường” cho sự đối đầu giữa hai cường quốc. Một câu hỏi đặt
ra là trong bối cảnh đó, Việt Nam có nên can dự vào cuộc đối đầu này để rồi trở
thành “nạn nhân” của một cuộc đấu đá giữa các cường quốc hay không?
Một
điều chúng ta phải chấp nhận đối mặt là với vị trí địa lý của mình, đặc biệt là
do sự tham gia của chúng ta vào tranh chấp Biển Đông với các lợi ích đan xen,
chồng chéo, chúng ta không thể và không nên đứng ngoài các diễn biến địa chính
trị khu vực. Nói cách khác, làm sao để Việt Nam không bị ảnh hưởng bởi cuộc đối
đầu đang tăng cường giữa Mỹ và Trung Quốc là một nhiệm vụ bất khả thi. Điều
chúng ta có thể làm chỉ là làm sao hạn chế được tối đa các tác động tiêu cực của
cuộc đối đầu này lên chúng ta mà thôi.
Để
làm được điều này, không có cách nào khả dĩ hơn việc chúng ta chủ động can dự
vào các diễn biến địa chính trị khu vực, góp phần định hình các diễn biến đó (nếu
có thể), hoặc ít nhất nắm bắt được các thông tin, diễn biến, can dự vào ý đồ của
các cường quốc để không phải trở thành kẻ ngoài lề, bị động đối phó, và rốt cuộc
sẽ trở thành “nạn nhân” bị đem ra mặc cả trong ván cờ giữa các nước lớn như đã
từng xảy ra trong lịch sử.
Hiện
tại, trong vấn đề Biển Đông, Việt Nam có hai vũ khí quan trọng có thể khiến
Trung Quốc e sợ, đó là các lựa chọn pháp lý và việc theo đuổi chính trị liên
minh. Tuy nhiên, trong khi phát súng pháp lý chưa thật sự sẵn sàng và một khi bắn
ra sẽ không thể thu hồi lại, thì theo đuổi chính trị liên minh là một biện pháp
linh hoạt và hiệu quả hơn mà Việt Nam có thể thực hiện để răn đe Trung Quốc.
Thứ
nhất, biện pháp này đánh vào tâm lý sợ bị bao vây, “ngăn chặn” của Trung Quốc.
Trung Quốc sẽ không bao giờ muốn Việt Nam ngã vào tay một cường quốc đối địch,
vì vậy nếu Việt Nam dịch chuyển theo hướng chính trị liên minh thì Trung Quốc sẽ
phải cân nhắc trong hành động để không đẩy Việt Nam ra quá xa.
Thứ
hai, chính trị liên minh không phải là một con đường một chiều. Cách dễ nhất để
hình dung chính trị liên minh là một đường trục với hai thái cực đối diện, một
thái cực (-1) là phù thịnh (bandwagoning), đi theo đối thủ, và thái cực còn lại
(+1) là tham gia liên minh quân sự để cân bằng (balancing) lại đối thủ. Trong
quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam lý tưởng nhất là ở vị trí cân bằng (0), tuy
nhiên tùy theo diễn biến quan hệ song phương và bối cảnh khu vực, chúng ta có
thể điều chỉnh vị trí của mình trong khoảng từ -1 đến +1 cho phù hợp. Ví dụ, nếu
Trung Quốc hung hăng, hiếu chiến, Việt Nam có thể điều chỉnh dần sang vị
trí +1, nhưng nếu Trung Quốc ôn hòa, xuống nước, Việt Nam có thể điều chỉnh
dần về vị trí số 0. Như vậy chúng ta không nên lo sợ phá vỡ quan hệ với Trung
Quốc vì chúng ta có thể điều chỉnh tùy theo tình hình. Điều chúng ta phải lo sợ
hơn là mất lãnh thổ, thứ một khi đã rơi vào tay người khác sẽ khó có thể đòi lại
được.
Thứ
ba, do có sự linh hoạt như trên, nên Việt Nam nếu khéo léo có thể điều chỉnh từng
bước đi trong chính trị liên minh để đáp lại các hành động của Trung Quốc. Trước
mắt, nếu Trung Quốc tiếp tục đưa giàn khoan vào vùng biển Việt Nam, chúng ta có
thể áp dụng lại chiến thuật như vừa qua, kiềm chế và kiên nhẫn đấu tranh để
Trung Quốc rút, phục hồi nguyên trạng. Tuy nhiên nếu Trung Quốc lặp đi lặp lại
hoặc leo thang, ví dụ không rút giàn khoan, đưa giàn khoan xuống khu vực Trường
Sa/ Tư Chính, thiết lập ADIZ trên Biển Đông, hay thậm chí xâm lược các vị trí
Việt Nam đang nắm giữ, thì Việt Nam cần ứng phó ra sao? Trong bối cảnh đó, Việt
Nam cần phải có các bước chuẩn bị để khi Trung Quốc đi một nước cờ thì Việt Nam
có thể đi được một nước tương ứng để đáp lại, tránh tình trạng Trung Quốc leo
thang nhưng Việt Nam chỉ có một bài để đấu tranh. Với các nấc thang khác nhau
như đã kể trên, chính trị liên minh giúp Việt Nam dự liệu trước các quân bài
khác nhau để đối phó với Trung Quốc, bên cạnh chuyện đấu tranh trên thực địa.
Như
vậy, trước bối cảnh Trung Quốc ngày càng có các hành động hung hăng mang
tính cưỡng bức trên Biển Đông, Việt Nam cần tận dụng các biến đổi địa chính trị
khu vực để giành thế chiến lược có lợi cho mình. Trước mắt, Việt Nam cần thực
hiện một số các biện pháp như cảnh báo Trung Quốc về hậu quả chiến lược nếu
tiếp tục có cách hành động cưỡng bức hoặc leo thang tranh chấp; làm việc
cùng các quốc gia đối tác quan trọng (đặc biệt là Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Philippines)
để lập kế hoạch tăng cường các mối quan hệ song phương, nhất là trong lĩnh vực
an ninh – quốc phòng, đồng thời lập kế hoạch các bước đi và nấc thang tiếp theo
mà Việt Nam cần thực hiện để đáp lại các hành động gây hấn mới hoặc leo thang
tranh chấp trên Biển Đông của Trung Quốc.
Tóm
lại, Việt Nam chỉ có thể hòa hiếu với Trung Quốc nếu Trung Quốc tôn trọng độc lập
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Nếu Trung Quốc dùng bạo quyền để
cưỡng bức thì chúng ta không thể mềm yếu để rồi mãi mãi đánh mất chủ quyền quốc
gia và toàn vẹn lãnh thổ vì một thứ “hữu nghị viễn vông”.
Trong
khi tìm mọi cách cố gắng duy trì quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và tương
kính với Trung Quốc, chúng ta cũng nên sẵn sàng theo đuổi các mối quan hệ liên
minh với các đối tác ở các lĩnh vực và mức độ khác nhau để đối phó với các mối
đe dọa trên Biển Đông. Theo nghĩa đó, liên minh không nên được hiểu là đi với
nước này để chống nước kia, mà là đi với nước nào để chúng ta có thể bảo vệ được
tốt nhất lợi ích quốc gia của mình.
Lê
Hồng Hiệp, vừa hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học
New South Wales, Học viện Quốc phòng Australia, Canberra, là giảng viên tại
Khoa Quan hệ quốc tế, Đại học KHXH&NV TPHCM, và là biên tập viên sáng lập
và điều hành trang mạng Nghiencuuquocte.net.
—————
[1] Việc tăng thuế tiêu
dùng (có tác động giảm phát) dựa trên cơ sở rằng trước đó hai mũi tên mở rộng
tài khóa và nới lỏng tiền tệ (có tác dụng gây lạm phát) đã được thực hiện, nên
sẽ không gây ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế. Ngoài nguyên nhân chính là
tăng thuế tiêu dùng thì các vấn đề như cải cách cơ cấu chậm có tác dụng, đồng
yen yếu làm tăng chi phí nhập khẩu đầu vào sản xuất và cơ cấu dân số bất lợi đều
tác động tiêu cực tới kinh tế Nhật trong năm 2014.
[2] Hầu như chắc chắn
liên minh giữa LDP và Đảng Công minh (Komeito) sẽ tiếp tục. Trong bầu cử, LDP
giành 291 ghế, Keomeito giành 35 ghế, tổng cộng là 326/475 (68,63%) ghế.
No comments:
Post a Comment