Chủ tịch Hoàng đế của Trung Quốc (phần I)
neofob
chuyển ngữ
Posted
by tapchiphiatruoc
on 12-03-14
Tập
Cận Bình siết chặt kiểm soát
Chủ
tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đưa ra một cái nhìn
đơn giản nhưng đầy sức mạnh: sự hồi sinh của quốc
gia Trung Quốc. Đó là lời động viên ái quốc lấy cảm
hứng từ những hào quang quá khứ của đế chế Trung
Quốc và những lý tưởng của xã hội chủ nghĩa đương
thời để khuyến khích đoàn kết chính trị trong nước
và ảnh hưởng ngoài nước. Chỉ sau hai năm đương chức,
Tập đã tự khẳng định mình là một nhà lãnh đạo có
sức thay đổi. Tập theo đuổi một nghị trình dự trù,
nếu không nói là cách mạng, cải cách các quan hệ không
chỉ đối với ở trong Trung Quốc mà còn đối với ngoài
nước.
Cơ
bản viễn kiến của Tập là một nhận thức về sự cấp
bách. Tập nắm quyền vào lúc mà Trung Quốc, cho dù thành
công về kinh tế, phiêu dạt về chính trị. Đảng Cộng
sản Trung Quốc, bị tràn ngập bởi tham nhũng và thiếu
vắng một lý tưởng hấp dẫn, đã đánh mất niềm tin
trong công chúng và bất ổn xã hội trên đà gia tăng.
Kinh tế Trung Quốc, dù vẫn tăng trưởng một cách ấn
tượng, đã bắt đầu có dấu hiệu của giới hạn và
sự không ổn định. Và về mặt quốc tế thì cho dù ở
vị trí cường quốc kinh tế toàn cầu, Trung Quốc vẫn
chưa làm đúng sức của mình. Bắc Kinh đã thất bại
trong việc phản ứng một cách có hiệu quả đối với
những khủng hoảng ở Libya và Syria và bàng quang khi mà
thay đổi chính trị rung chuyển hai đối tác thân nhất,
Miến Điện (hay còn được biết đến là Burma) và Bắc
Triều Tiên. Đối với nhiều nhà quan sát, nó trông có vẻ
là Trung Quốc không có chính sách ngoại giao chiến lược
bao quát.
Tập
đã phản ứng với tình trạng mơ hồ này bằng một cuộc
thâu tóm quyền lực–cho ông ta, cho Đảng Cộng sản, và
cho Trung Quốc. Ông từ bỏ truyền thống của người cộng
sản về lãnh đạo tập thể. Thay vào đó là việc ông
thiết lập cho bản thân mình như là một lãnh tụ tối
cao trong một hệ thống chính trị cực kỳ tập trung. Ở
trong nước, những đề nghị cải cách của Tập sẽ nâng
đỡ vai trò của thị trường thế nhưng dù sao đi nữa
cho phép chính quyền vẫn giữ phần lớn kiểm soát. Ở
ngoài nước, Tập đã tìm cách nâng vị thế Trung Quốc
bằng cách mở rộng thương mại, thiết lập những tổ
chức quốc tế, và củng cố quân đội. Viễn kiến của
Tập chứa đựng một nỗi sợ tiềm ẩn: rằng là một
cánh cửa mở rộng ra cho những ý tưởng chính trị và
kinh tế phương Tây sẽ làm suy yếu quyền lực của chính
quyền Trung Quốc.
Nếu
thành công, những cải cách của Tập có thể tạo ra một
chính quyền không tham nhũng, đoàn kết chính trị, và
hùng cường về kinh tế mang tầm vóc quốc tế: một siêu
Singapore. Thế nhưng chẳng có gì dám chắc rằng những
cải cách sẽ có tính xoay chuyển như Tập mong đợi.
Những chính sách của ông đã tạo ra những ổ bất mãn
sâu sắc trong nước và đã tạo ra những phản ứng ngược
ở nước ngoài. Để dẹp tan bất đồng, Tập đã phát
động một cuộc đàn áp chính trị, gạt nhiều công dân
Trung Quốc tài năng và tháo vát ra ngoài mà những cải
cách của ông định ủng hộ. Những biện pháp gợi ý
cải cách kinh tế của ông đã đặt ra nhiều câu hỏi về
những viễn cảnh tiếp tục phát triển của quốc gia. Và
lối suy nghĩ được ăn cả đã làm suy mòn những cố
gắng của ông để trở thành một nhà lãnh đạo toàn
cầu.
Hoa
Kỳ và phần còn lại của thế giới không thể ngóng đợi
những cải cách của ông ta sẽ cho kết quả ra sao. Hoa Kỳ
nên sẵn sàng đi theo một số sáng kiến của Tập như là
những cơ hội cho hợp tác quốc tế trong khi xem những
việc khác là những xu hướng đáng lo ngại cần phải
được ngăn cản trước khi chúng trở nên vững chắc.
Đàn
áp quốc nội
Viễn
kiến của Tập cho một Trung Quốc hồi sinh dựa tất cả
vào khả năng của ông để đưa cải cách chính trị theo
phong cách đặc biệt của ông: thu tóm quyền lực bằng
cách tạo ra những tổ chức, bịt miệng chống đối
chính trị, hợp pháp hóa sự lãnh đạo của ông ta và
quyền lực của Đảng Cộng sản trong mắt nhân dân Trung
Quốc. Kể từ khi nhậm chức, Tập đã nhanh chóng thu tóm
quyền lực chính trị và trở nên, trong giới lãnh đạo
Trung Quốc, không chỉ là người quan trọng trong những
đồng liêu mà là người tối thượng. Ông ta giữ chức
Tổng bí thư Ban chấp hành Đảng Cộng sản và Chủ tịch
Quân ủy Trung ương, hai trụ cột truyền thống dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngoài ra Tập
cũng giữ chức lãnh đạo các nhóm hàng đầu về kinh tế,
cải cách quân sự, an ninh mạng, Đài Loan, ngoại giao và
một ủy ban về an ninh quốc gia. Không như những người
tiền nhiệm, họ để thủ tướng làm công tác của người
có thẩm quyền về kinh tế của chính quyền, Tập tự
mình giành lấy trò đó. Ông ta cũng đã làm một việc
rất là cá nhân về quyền chỉ huy đối với quân đội:
mùa xuân vừa qua, ông nhận được những lời tuyên thệ
trung thành công khai từ 53 sĩ quan quân đội cao cấp. Theo
lời một viên tướng về hưu, những lời tuyên thệ như
vậy chỉ diễn ra ba lần trước đây trong lịch sử của
Trung Quốc.
Trong
nỗ lực thu tóm quyền lực của mình, Tập cũng đã tìm
cách loại trừ những tiếng nói chính trị khác, đặc
biệt là nơi đã từng là nhộn nhịp như Internet. Chính
quyền đã bắt giữ, giam cầm, hoặc công khai hạ nhục
những người viết blog nổi tiếng như nhà kinh doanh tỷ
phú Phan Thạch Ngật và Tiết Tất Quần (microblog Tiết
Man Tử). Những nhà bình luận như vậy, với hàng chục
triệu người theo dõi trên mạng xã hội, đã thường hay
thảo luận những vấn đề từ ô nhiễm môi trường cho
đến kiểm duyệt cho đến buôn bán trẻ em. Cho dù họ đã
không hoàn toàn bị buộc im miệng, họ không còn đi lang
thang vào lãnh vực chính trị. Quả thực là Phan, một
nhân vật chính của phong trào gây áp lực chính quyền
Trung Quốc cải thiện chất lượng không khí của Bắc
Kinh, bị buộc phải tự kiểm điểm trên đài truyền
hình quốc gia vào năm 2013. Sau đó ông ta dùng Weibo, một
dịch vụ tiểu blog của Trung Quốc, để cảnh báo một
thành viên tỷ phú bất động sản về chuyện chỉ trích
chương trình cải cách kinh tế của chính phủ: “Cẩn
thận, nếu không anh có thể bị bắt giữ.”
Dưới
trướng của Tập, Bắc Kinh đã ra một đống những nghị
định kiểm soát Internet. Một luật đề ra mức án lên
đến ba năm tù cho việc đăng tải bất cứ chuyện gì mà
các nhà chức trách cho là “tin
đồn”,
nếu mẩu tin được đọc bởi hơn 5000 người hay được
chuyển tiếp trên 500 lần. Theo những dự luật mới ngặt
nghèo này, công dân Trung Quốc đã bị bắt giữ vì đăng
tải những giả thiết về việc mất tích của chuyến
bay 370 của hãng Hàng Không Malaysia. Trong khoảng thời gian
hơn bốn tháng, Bắc Kinh đã đình chỉ, xóa, hoặc phạt
hơn 100 000 tài khoản trên Weibo vì vi phạm một trong bảy
“điểm
mấu chốt”
được định nghĩa sơ sài cho giới hạn của ngôn luận
cho phép. Những quy định này dẫn đến suy giảm 70 phần
trăm các bài viết trên Weibo từ tháng Ba 2012 cho đến
tháng Mười Hai 2013 trong 1,6 triệu người dùng Weibo theo
một nghiên cứu được thi hành bởi The
Telegraph.
Và khi những công dân mạng Trung Quốc biết được những
cách khác để liên lạc, ví dụ như sử dụng nền tảng
tin nhắn nhóm WeChat, những tay kiểm duyệt của chính phủ
bám đuôi họ. Vào tháng 8 2014, Bắc Kinh ban hành những
quy định mới về tin nhắn tức thời đòi hỏi người
dùng phải đăng ký với tên thật, giới hạn chia sẻ tin
tức chính trị, và bắt tuân theo một quy tắc ứng xử.
Không lấy làm lạ là xếp hạng tự do Internet toàn cầu
của Trung Quốc vào năm 2013, tổ chức phi lợi nhuận
Freedom House ở Hoa Kỳ xếp Trung Quốc vào hạng 58 trong 60
quốc gia–đồng hạng với Cuba. Chỉ Iran xếp hạng dưới
hơn.
Trong
nỗ lực của Tập để khuyến khích đoàn kết tư tưởng,
Tập đã chụp mũ những tư tưởng ngoại lai thách đố
hệ thống chính trị của Trung Quốc là không yêu nước
và có khi là nguy hiểm. Cứ theo lối suy nghĩ này, Bắc
Kinh đã cấm nghiên cứu đại học và giảng dạy về bảy
đề tài: giá trị phổ quát, xã hội dân sự, quyền công
dân, tự do báo chí, những sai lầm Đảng Cộng Sản đã
làm, những đặc quyền của chủ nghĩa tư bản, và sự
độc lập của tư pháp. Mùa hè vừa rồi, một cán bộ
đảng công khai đả phá Viện Khoa Học Xã Hội Trung Quốc,
một viện nghiên cứu của chính phủ, là đã bị “xâm
nhập bởi những thế lực nước ngoài.”
Sự đả phá này gặp phải diễu cợt trong giới học giả
nổi bật của Trung Quốc ở ngoài học viện bao gồm kinh
tế gia Mao Vu Thức, giáo sư luật Hạ Vệ Phương, và nhà
văn Lưu Nhất Minh. Dẫu vậy, những lời cáo buộc sẽ có
thể có một tác dụng làm nhụt nhụê khí đối với
nghiên cứu học thuật và hợp tác quốc tế.
Việc
đàn áp này có thể phá hoại sự liên kết chính trị mà
Tập theo đuổi. Cư dân Hương Cảng và Ma Cao, theo lệ thì
đã hưởng nhiều tự do chính trị hơn những người ở
đại lục, đã theo dõi những động thái của Tập với
lo lắng phát sốt; nhiều người đã kêu gọi cải cách
dân chủ. Trong một nền dân chủ sôi động như Đài
Loan, những khuynh hướng trù dập của Tập chẳng thể
giúp ích gì cho việc khuyến khích thống nhất với đại
lục. Và trong vùng chia rẽ sắc tộc Tân Cương, những
chính sách hạn chế chính trị và văn hóa đã dẫn đến
những cuộc bạo động.
Ngay
cả trong giới thượng lưu chính trị, nhiều người đã
bày tỏ quan ngại về việc Tập siết chặt và theo đuổi
một chỗ đứng ở hải ngoại. Theo nguyệt san Hồ
Nhuận Bách Phú
ở Trung Quốc, 85 phần trăm số người có tài sản hơn 1
triệu đô mỹ muốn con cái được giáo dục ở nước
ngoài, và hơn 65 phần trăm công dân Trung Quốc với tài
sản hơn 1,6 triệu đô mỹ đã di tản hoặc có kế hoạch
để đi. Sự tháo chạy của giới tinh hoa của Trung Quốc
đã trở thành không chỉ là một sự bẽ mặt chính trị
mà còn là một sự thất bại đáng kể đối với những
nỗ lực của Bắc Kinh nhằm thu hút những khoa học gia
hàng đầu và học giả ở hải ngoại trong những thập
niên vừa qua.
Một
chính nghĩa?
Tâm
điểm của những cải cách chính trị của Tập là nỗ
lực của ông nhằm phục hồi chính nghĩa của Đảng Cộng
sản. Ông ta đã chỉ rõ rằng nếu không để ý nạn dịch
tham nhũng của đảng nó có thể dẫn đến suy tàn không
chỉ của đảng mà còn của chính quyền Trung Quốc. Với
sự chỉ đạo sát cánh của Vương Kỳ Sơn, một thành
viên của Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị, giải quyết tham
nhũng của cán bộ đã trở thành vấn đề dấu ấn của
Tập. Những nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đó đã có
chiến dịch chống tham nhũng thế nhưng Tập đã mang lại
khí thế và tầm quan trọng cho mục tiêu: giới hạn quỹ
cho yến tiệc công, xe, suất ăn; công kích những nhân vật
nổi tiếng của truyền thông, nhà nước, quân đội, và
lãnh vực tư nhân; gia tăng đáng kể số vụ án tham nhũng
mang ra xét xử. Vào năm 2013, đảng trừng phạt hơn 182
000 quan chức vì tham nhũng, 50 000 hơn bình quân hàng năm
so với năm năm trước. Hai vụ bê bối nổ ra mùa xuân
vừa rồi cho thấy mức độ của chiến dịch. Ở vụ thứ
nhất, các nhà chức trách trung ương bắt giữ một trung
tướng ở quân đội Trung Quốc vì đã bán hàng trăm chức
vụ trong các lực lượng vũ trang, đôi khi với giá khủng
khiếp; ví dụ giá cho chức thiếu tướng lên đến 4,8
triệu đô mỹ. Ở vụ thứ hai, Bắc Kinh đã bắt đầu
điều tra hơn 500 thành viên của chính quyền địa vùng
Tỉnh Hồ Nam vì đã tham gia vào một đường dây bán
phiếu bầu cử 18 triệu đô mỹ.
Cuộc
thập tự chinh chống tham nhũng của Tập chỉ tiêu biểu
một phần của dự định lớn hơn của ông ta để giành
lại chính nghĩa của Đảng Cộng Sản. Ông cũng đã đưa
ra những cải cách nhắm đến một số quan tâm cấp bách
nhất của xã hội Trung Quốc. Với Tập ở vị trí đứng
mũi chịu sào, giới lãnh đạo Trung Quốc đã phát động
một chiến dịch để cải thiện chất lượng không khí
của quốc gia; cải cách chính sách một con; thay đổi hệ
thống hộ
khẩu
mà nó gắn chặt với nhà ở, chăm sóc sức khỏe, và
giáo dục với người dân và có khuynh hướng ưu đãi thị
dân hơn là dân quê; đóng cửa hệ thống “trại
cải tạo lao động”
mà chúng cho phép chính quyền giam giữ người không cần
lý do. Chính phủ cũng đã loan báo những kế hoạch để
sửa soạn cho hệ thống pháp lý minh bạch hơn và để
xóa bỏ việc can thiệp của quan chức địa phương.
Dẫu
cho những sáng kiến của Tập có mức độ ấn tượng và
bao quát, chẳng có gì sáng sủa vì không biết chúng có
tiêu biểu cho sự khởi đầu của thay đổi về lâu dài
hay không, hay là chúng chỉ là những biện pháp hời hợt
với chủ đích lấy lòng nhân dân trước mắt. Dù gì đi
nữa, một số cải cách của ông đã kích động sự
chống đối mạnh mẽ. Theo Financial
Times,
những cựu lãnh đạo Trung Quốc như cả Giang Trạch Dân
và Hồ Cẩm Đào đều cảnh báo Tập nhằm kiềm chế
chiến dịch chống tham nhũng, và bản thân Tập đã thừa
nhận là những nỗ lực của ông đã gặp phải chống
đối đáng kể. Chiến dịch cũng đã dẫn đến những
thiệt hại kinh tế đáng kể. Theo một bản báo cáo của
Bank of America Merrill Lynch, GDP của Trung Quốc có thể giảm
trong năm nay lên đến 1.5 phần trăm do hậu quả của sự
tụt giảm buôn bán hàng hóa và dịch vụ hàng xa xỉ khi
mà các quan chức ngày càng lo ngại rằng những yến tiệc
xa hoa, nhờ vả chính trị, những mua bán đắt đỏ sẽ
đem lại sự chú ý không mong muốn. (Dĩ nhiên, nhiều
người Trung Quốc vẫn đang tiếp tục mua, họ chỉ làm
điều đó ở nước ngoài.) Và ngay cả những người ủng
hộ mục tiêu của việc chống tham nhũng cũng đã đặt
nghi vấn những phương pháp của Tập. Đơn cử Thủ tướng
Lý Khắc Cường, đã kêu gọi có sự tường minh và giải
trình hơn trong chiến dịch chống tham nhũng của chính phủ
vào đầu năm 2014; tuy vậy những lời phê bình của ông
đã bị xóa bỏ khỏi những trang mạng.
Lập
trường của Tập về tham nhũng có thể đưa đến một
nguy cơ cho vị thế cá nhân và chính trị của ông: gia
đình của ông được xếp vào những giàu nhất trong giới
lãnh đạo của Trung Quốc, và theo The
New York Times,
Tập đã ra lệnh cho họ hàng xén bớt tài sản để giảm
nguy cơ bị công kích cho ông. Hơn nữa, ông đã cưỡng
lại những lời kêu gọi cho một sự minh bạch hơn, tống
giam những nhà hoạt động thúc đẩy các quan chức bạch
hóa tài sản của họ và trừng phạt những cơ quan báo
chí phương Tây điều tra các nhà lãnh đạo Trung Quốc.
Còn
tiếp…
************
neofob
chuyển ngữ
Posted
by mua thu on
12-03-14
Nắm
giữ quyền lực
Vì
Tập cố thu tóm quyền lực chính trị và phục hồi tính
chính thống của Đảng Cộng Sản, ông ta cũng phải tìm
các cách làm cho kinh tế Trung Quốc tăng trưởng thêm. Nói
khái quát là mục tiêu của ông bao gồm thay đổi Trung
Quốc từ trung tâm sản xuất của thế giới thành đầu
mối của sáng tạo, tái cân bằng kinh tế Trung Quốc bằng
việc ưu tiên tiêu thụ hơn là đầu tư, và mở rộng chỗ
cho doanh nghiệp tư nhân. Kế hoạch của Tập bao gồm
những cải cách cả về nền tảng và chính sách. Lấy ví
dụ, ông đã thay đổi hệ thống thuế bằng một cuộc
đại tu đáng kể: ngân sách địa phương sẽ có từ
nhiều nguồn thuế thay vì chủ yếu từ việc bán đất,
điều mà đã dẫn đến tham nhũng và bất ổn xã hội.
Hơn nữa, chính quyền trung ương, theo truyền thống thu
ngân sách quốc gia khoảng phân nửa trong khi chỉ chi một
phần ba cho phúc lợi xã hội, sẽ tăng ngân sách cho những
dịch vụ xã hội giảm bớt một phần gánh nặng cho
chính quyền địa phương. Hàng chục những chính sách
khác cũng đang trong giai đoạn thử nghiệm bao gồm khuyến
khích tư nhân đầu tư vào những tập đoàn của nhà nước
và giảm lương bổng của những nhà lãnh đạo của các
tập đoàn này, thành lập những ngân hàng tư để chuyển
dòng vốn đến doanh nghiệp nhỏ và trung, và rút ngắn
thời gian cấp giấy phép cho những doanh nghiệp mới.
Dẫu
vậy khi mà những chi tiết về kế hoạch của Tập lộ
ra, nó cho thấy rõ ràng là cho dù ông ta chú trọng thị
trường tự do, chính quyền sẽ nắm giữ kiểm soát phần
lớn nền kinh tế. Cải tổ cách thức mà các tập đoàn
nhà nước đang được điều hành sẽ không làm suy giảm
vai trò chủ đạo của Đảng Cộng Sản trong việc hoạch
định chính sách cho những công ty này; Tập đã giữ lại
một số rào cản đáng kể đối với đầu tư nước
ngoài; và ngay cả khi chính quyền cam kết chuyển ra khỏi
phát triển dựa trên đầu tư, những nỗ lực kích thích
kinh tế tiếp tục góp phần gia tăng nợ công của chính
quyền địa phương. Quả thực là, theo một tờ báo Trung
Quốc Hoàn
Cầu Thời Báo,
sự gia tăng của tổng nợ xấu trong vòng sáu tháng đầu
năm 2014 vượt quá giá trị của số nợ xấu mới cho cả
năm 2013.
Hơn
nữa, Tập đã truyền vào chương trình kinh tế của ông
với cảm xúc ái quốc–đôi khi bài ngoại–làm nó lan
tràn khắp chương trình chính trị của ông ta. Những
chiến dịch chống tham nhũng và chống độc quyền hung
hãn của ông ta đã nhắm đến những công ty đa quốc gia
sản xuất những sản phẩm bao gồm sữa bột, thiết bị
y tế, dược phẩm, và phụ tùng xe hơi. Bằng chứng là
vào tháng 7, 2013, Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc
gia của Trung Quốc nhóm họp các đại biểu từ 30 công
ty đa quốc gia với một nỗ lực buộc họ thừa nhận
làm điều phạm pháp. Có lúc, Bắc Kinh ra vẻ phá hoại
sản phẩm ngoại quốc và các nhà cung cấp dịch vụ:
truyền thông nhà nước săm soi chi tiết vào vi phạm của
các công ty đa quốc gia trong khi tương đối im hơi lặng
tiếng về những trường hợp tương tự ở các công ty
của Trung Quốc.
Giống
như chiến dịch chống tham nhũng của mình, điều tra các
công ty ngoại quốc của Tập đặt dấu hỏi về chủ
đích thực. Trong một cuộc tranh luận giữa người đứng
đầu Phòng Thương mại của Liên Hiệp Châu Âu ở Trung
Quốc và một quan chức từ Ủy ban Phát triển và Cải
cách Quốc gia được phát sóng công khai bởi đài truyền
hình quốc gia Trung Quốc, viên chức của Liên hiệp Châu
Âu đã buộc người đối tác bào chữa cho những sự bất
bình đẳng lồ lộ giữa cách đối xử của chính quyền
Trung Quốc đối với các công ty nước ngoài và nội địa.
Rút cục viên chức Trung Quốc tỏ ra nhượng bộ, nói
rằng phương pháp chống độc quyền của Trung Quốc là
phương pháp “có
đặc trưng Trung Quốc.”
Vì
thế sự hứa hẹn ban đầu của công cuộc đại tu của
Tập vẫn chưa hình thành. Một bảng báo cáo 31 trang về
cải cách kinh tế của Trung Quốc, phát hành vào tháng Sáu
2014 của Hội đồng Thương Mại Hoa-Trung, bao gồm hàng
chục những yêu cầu không hoàn thành. Nó cho thấy rằng
chỉ có ba sáng kiến chính trị của Tập thành công: rút
ngắn thời gian đăng ký doanh nghiệp, cho phép các công ty
đa quốc gia dùng nhân dân tệ để phát triển kinh doanh
của họ, và cải cách hệ thống hộ khẩu. Giải quyết
những cải tổ sâu rộng hơn, tuy vậy, có thể đòi hỏi
một cú huých vào hệ thống. Hiện giờ thì Tập dường
như là kẻ thù tệ nhất của chính mình: những yêu cầu
chiếm lĩnh thị trường không phù hợp với mong muốn của
ông nhằm duy trì kiểm soát kinh tế.
Dắt
sư tử
Những
nỗ lực của Tập để thay đổi chính trị và kinh tế ở
trong nước đi đôi với những bước đi để gây dựng
Trung Quốc trở thành một cường quốc toàn cầu. Tuy thế
gốc rễ của chính sách đối ngoại của Tập có trước
nhiệm kỳ của ông. Giới lãnh đạo Trung Quốc đã bắt
đầu công khai nói đến sự trỗi dậy của Trung Quốc
như là một cường quốc toàn cầu nhân dịp cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu vào năm 2008. Những phân tích
gia của Trung Quốc phán đoán rằng Hoa Kỳ đã bắt đầu
một sự suy thoái không tránh khỏi vì thế nó nên nhường
chỗ cho Trung Quốc khi mà nó còn là siêu cường toàn cầu.
Trong một bài diễn văn ở Paris vào tháng Ba 2014, Tập
nhắc lại suy tư của Naloleon về Trung Quốc: “Napoleon
đã nói rằng Trung Quốc là một con sư tử đang ngủ, và
khi nó thức dậy, thế giới sẽ rung chuyển.”
Con sư tử Trung Quốc, Tập trấn an người nghe, “đã
thức dậy nhưng đây là một con sư tử yên lặng, dễ
chịu, và lịch sự.”
Dẫu vậy một số hành động của Tập chứng tỏ ngược
lại những lời nói an ủi của mình. Ông ta thay thế câu
tâm niệm của nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình
trước đó–“Thao
quang dưỡng hối”–bằng
một chính sách đối ngoại có tính bành trướng và phô
diễn sức mạnh hơn.
Đối
với Tập, mọi con đường đều dẫn đến Bắc Kinh, cả
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Ông đã hồi sinh ý tưởng cổ
xưa của Con đường Tơ Lụa–liên thông Đế chế Trung
Hoa với Trung Á, Trung Đông, và kể cả Châu Âu–bằng
cách đề xuất một mạng lưới mênh mông bao gồm các
tuyến đường sắt, đường ống dẫn dầu, đường cao
tốc, và các kênh đào nương theo những tuyến đường
xưa. Hệ thống cơ sở hạ tầng mà Tập hy vọng các ngân
hàng và công ty Trung Quốc sẽ tài trợ và xây dựng, sẽ
cho phép gia tăng trao đổi mậu dịch giữa Trung Quốc và
phần lớn thế giới. Bắc Kinh cũng đã xem xét đến
chuyện xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc quãng
8100 dặm liên lục địa để sẽ nối liền Trung Quốc
với Canada, Nga, và Hoa Kỳ băng qua Eo biển Bering. Ngay cả
Bắc Cực đã trở thành sân sau của Trung Quốc: các học
giả Trung Quốc coi nước họ là một quốc gia “gần
Bắc Cực”.
Bên
cạnh cơ sở hạ tầng mới này, Tập cũng muốn thiết
lập những tổ chức mới để hỗ trợ lập trường của
Trung Quốc trong vai trò lãnh đạo trong cả khu vực và
toàn cầu. Ông đã ủng hộ việc thiết lập một ngân
hàng phát triển, điều hành bởi những nước
BRICS–Brazil, Russia, India, China, và South Africa–để thách
thức sự ưu việt của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và Ngân
Hàng Thế Giới. Và ông đã thúc đẩy việc thành lập
Ngân Hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Á Đông mà nó có thể
cho phép Trung Quốc trở thành người cấp vốn hàng đầu
cho phát triển khu vực. Hai nỗ lực này báo hiệu mong
muốn của Tập lợi dụng những thất vọng với việc
thiếu thiện ý của Hoa Kỳ nhằm dàn xếp các tổ chức
kinh tế thế giới để đại diện cho các nước đang
phát triển hơn.
Tập
cũng đã đề xướng những sáng kiến an ninh khu vực. Bên
cạnh Tổ chức Hợp tác Thượng Hải sẵn có, một tổ
chức an ninh do Trung Quốc dẫn đầu bao gồm Nga và bốn
quốc gia Trung Á, Tập muốn thiết lập mới một kết cấu
an ninh Á Châu–Thái Bình Dương mà nó loại trừ Hoa Kỳ
ra. Phát biểu ở một hội nghị vào tháng Năm 2014, Tập
nhấn mạnh vấn đề: “Vấn
đề là hãy để người Á Châu lo chuyện của Châu Á,
giải quyết những vấn đề của Châu Á, và gìn giữ an
ninh của Châu Á.”
Tánh
thiên vị của Tập cho một chính sách khu vực hung hăng
trở nên rõ ràng trước khi trở thành chủ tịch nước.
Vào năm 2010, Tập chủ tọa một nhóm trọng yếu lo về
chính sách cho Biển Nam Trung Hoa của quốc gia. Nó đã mở
rộng định nghĩa lợi ích cốt lõi của Trung Quốc để
bao gồm những tuyên bố chủ quyền lãnh hải ở Biển
Nam Trung Hoa. Kể từ đó, ông đã sử dụng mọi thứ từ
Hải quân Trung Quốc cho đến tàu đánh cá để củng cố
những tuyên bố này–những tuyên bố chủ quyền này bị
kháng cự bởi những quốc gia có biển tiếp giáp với
Trung Quốc. Vào tháng Năm 2014, va chạm giữa Trung Quốc và
Việt Nam nổ ra khi Tập đoàn Dầu khí Quốc Gia Trung Quốc
di chuyển một giàn khoan vào vùng tranh chấp ở Biển Nam
Trung Hoa; căng thẳng dâng cao cho đến khi Trung Quốc rút
khỏi giàn khoan vào giữa tháng Bảy. Để hỗ trợ những
tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Nam Trung
Hoa, Tập đã tuyên bố một “vùng
nhận dạng phòng không”
trải rộng một phần của nó, chồng lấn với những
vùng được thiết lập bởi Nhật Bản và Nam Hàn. Ông ta
cũng đã ra thông cáo những quy định đánh cá trong khu
vực. Không bất cứ một quốc gia láng giềng nào của
Trung Quốc công nhận bất cứ hành động này là hợp
pháp. Thế nhưng Bắc Kinh đã vẽ lại bản đồ của
Trung Quốc in trên hộ chiếu với hình vùng đang tranh chấp
với Ấn Độ cũng như với các quốc gia ở Đông Nam Á
đã gây nên một cơn bão lửa chính trị.
Những
thủ đoạn này đã kích động tình cảm chủ nghĩa dân
tộc ở trong nước và chủ nghĩa dân tộc gay gắt ở
ngoài nước. Các nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa ở Ấn
Độ và Nhật Bản đã bày tỏ lo ngại về những chính
sách của Tập và có những biện pháp để gia tăng thực
lực quốc phòng của họ. Thực tế là trong chiến dịch
tranh cử cho chức Thủ tướng vào đầu năm 2014, Narendra
Modi chỉ trích những khuynh hướng bành trướng của Trung
Quốc. Kể từ đó, ông ta và Thủ tướng Nhật Bản
Shinzo Abe đã nâng cấp quốc phòng và quan hệ an ninh.
Nhiều nỗ lực mới về an ninh khu vực đang được xúc
tiến mà không có mặt Bắc Kinh (cũng như Washington). Ví
dụ Ấn Độ đã và đang huấn luyện một số hải quân
của Đông Nam Á bao gồm Miến Điện và Việt Nam, và
nhiều quân đội của khu vực–kể cả Úc, Ấn Độ,
Nhật Bản, Philippines, Singapore, và Nam Hàn–đã hoạch
định những cuộc tập trận chung.
Một
phản ứng mạnh mẽ
Đối
với Hoa Kỳ và phần lớn thế giới, sự trỗi dậy của
Trung Quốc gây ra hai phản ứng khác nhau: một mặt phấn
khích về những gì mà một Trung Quốc mạnh mẽ hơn, ít
tham nhũng hơn có thể đạt được, và mối quan tâm sâu
sắc hơn về mặt khác là những thách thức mà một Trung
Quốc độc đoán, quân phiệt có thể đặt ra cho một
trật tự tự do hậu thuẫn bởi Hoa Kỳ.
Về
mặt tích cực mà nói, những kế hoạch của Bắc Kinh cho
một Con đường Tơ Lụa dựa trên ổn định chính trị ở
Trung Đông; điều đó có thể đem lại cho Bắc Kinh một
lợi ích để làm việc với Washington để đạt được
hòa bình trong khu vực. Tương tự, những gia tăng lợi ích
của các công ty Trung Quốc trong việc đầu tư ở nước
ngoài có thể đem lại lợi thế nhiều hơn cho Washington
khi mà nó đẩy mạnh xúc tiến một thỏa ước đầu tư
song phương với Bắc Kinh. Hoa Kỳ cũng nên khuyến khích
Trung Quốc tham gia vào Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến
lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), một hiệp định lớn
về tự do thương mại khu vực đang được đàm phán.
Giống như những đàm phán của Trung Quốc để tham gia Tổ
chức Thương mại Thế giới vào thập niên 90 đã thúc
đẩy những nhà cải cách kinh tế Trung Quốc phải gia
tăng thay đổi ở trong nước, những đàm phán để tham
gia TPP có thể có tác động tương tự với hiện giờ.
Hơn
nữa, cho dù Trung Quốc đã có quyền lợi quan trọng trong
hệ thống quốc tế, Hoa Kỳ phải tính toán để giữ
Trung Quốc ở trong cùng một phe. Ví dụ, Quốc Hội Hoa Kỳ
nên phê chuẩn những đề xuất thay đổi cho hệ thống
bầu cử nội bộ của Quỹ Tiền tệ Quốc Tế để nó
sẽ cho phép Trung Quốc và những quốc gia phát triển khác
một tiếng nói mạnh hơn trong việc quản lý quỹ và bằng
cách ấy sẽ giảm thiểu quyết tâm của Bắc Kinh để
thành lập những nhóm cạnh tranh.
Về
mặt tiêu cực mà nói, giọng điệu dân tộc chủ nghĩa
và thái độ quân sự quả quyết của Tập đặt ra một
thách thức trực tiếp đến những quyền lợi của Hoa Kỳ
ở trong khu vực và đòi hỏi một phản ứng mạnh mẽ.
Việc “tái
cân bằng”
hay “xoay
trục”
của Washington sang Châu Á có nhiều ý nghĩa hơn đơn giản
chỉ là một phản ứng đối với hành vi quả quyết hơn
của Trung Quốc. Nó cũng phản ánh những giá trị cốt
yếu của các chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ: tự do
hàng hải, không lưu, và không gian; tự do thương mại;
thượng tôn pháp luật**[1]**; và các quyền con người cơ
bản. Nếu không có một sự xoay trục vững chắc, vai trò
của Hoa Kỳ là một cường quốc khu vực sẽ giảm lần
và Washington sẽ bị ngăn chặn những lợi ích từ việc
hợp tác sâu rộng với những nền kinh tế năng động
nhất thế giới. Vì thế Hoa Kỳ nên yểm trợ việc xoay
trục với một sự hiện diện quân sự lớn mạnh ở
Châu Á–Thái Bình Dương để ngăn cản hoặc đối phó
sự gây hấn của Trung Quốc; đạt được sự đồng
thuận và phê chuẩn TPP; và giúp đỡ những chương trình
của Hoa Kỳ để ủng hộ những tổ chức dân chủ và tổ
chức dân sự ở những nơi như Cambodia, Malaysia, Myanmar,
và Việt Nam, nơi mà dân chủ còn phôi thai nhưng đang nảy
nở.
Đồng
thời, Washington nên nhận ra rằng Tập có thể không thành
công về việc chuyển đổi Trung Quốc theo đúng theo cách
thức ông ta đã tuyên bố. Ông ta đã đưa ra viễn kiến
của mình nhưng những áp lực từ cả bên trong và bên
ngoài Trung Quốc sẽ phát triển quỹ đạo của quốc gia
theo những hướng khác nhau. Một số quốc gia có giàu
khoáng sản đã do dự làm ăn với những tập đoàn của
Trung Quốc. Các quốc gia này lo lắng trước hồ sơ yếu
kém về trách nhiệm xã hội của những tập đoàn Trung
Quốc. Điều này đã buộc Bắc Kinh phải tìm kiếm những
phương thức mới để kinh doanh. Những quốc gia láng
giềng của Trung Quốc, lo âu bởi thái độ nghênh ngang
của Trung Quốc, đã bắt đầu thiết lập những hợp tác
an ninh mới. Ngay cả những chuyên gia ngoại giao nổi tiếng
trong Trung Quốc như Vương Tập Tư của Đại học Bắc
Kinh và cựu Đại sứ Ngô Kiến Dân, đã bày tỏ những
mối quan ngại về tiến trình của chính sách đối ngoại
của Tập.
Sau
cùng, cho dù chính sách đối nội và đối ngoại của Tập
ít có vẻ gì là sẵn sàng hợp tác sâu đậm hơn với
Hoa Kỳ, Washington không nên mắc phải vào việc coi mối
quan hệ với Trung Quốc là một cuộc đọ sức. Đối xử
Trung Quốc như là một kẻ cạnh tranh hay kẻ địch chỉ
đổ thêm vào giọng điệu bài phương Tây của Tập, làm
suy yếu những ai ở Trung Quốc đang thúc đẩy cho tiếng
nói trung hòa, và chẳng giúp ích gì để gia tăng sự hợp
tác song phương và có phần giảm bớt sự tiến triển
của Hoa Kỳ. Thay vì thế Nhà Trắng nên đặc biệt để
ý đến sự triển khai của các chính sách của Tập, tận
dụng những lợi thế mà chúng có thể tăng cường mối
quan hệ với Trung Quốc và đẩy lui những chuyện làm suy
yếu lợi ích của Hoa Kỳ. Đối mặt với sự bất định
của tương lai của Trung Quốc, các nhà hoạch định chính
sách của Hoa Kỳ phải uyển chuyển và ứng phó nhanh
chóng.
– Hết
–
-------------------------
Elizabeth
C Economy là Thành viên Cao cấp của C.V. Starr và là Tổng
giám đốc của Nghiên cứu Châu Á ở Hội đồng Quan hệ
Đối ngoại.
No comments:
Post a Comment