Vài suy nghĩ trên một đảo lạ thường
31/10/24
https://thongluan-rdp.org/quan-di-m/item/34535-vai-suy-nghi-tren-m-t-d-o-l-thu-ng
Nếu
điều may mắn cho một quốc gia là thu hút được những con người ưu tú thì điều
không may nhất cũng là mất đi, mất hẳn hay vẫn còn nhưng không sử dụng được, những
con người này.
Thành
quả lớn nhất của Đảng Cộng Sản là đã khiến người Việt Nam chán đất nước Việt
Nam. Mộng ước của rất nhiều người hiện nay là được rời Việt Nam để làm dân một
nước khác.
https://thongluan-rdp.org/images/crete1.png
Bản
đồ đảo Crete trong vùng Biển Agean
Crete
là đảo mà từ rất lâu rồi tôi đã muốn viếng thăm. Nó có lẽ cũng là đảo đáng tham
quan nhất trên thế giới. Tuy vậy lần này nếu không lỡ hẹn trước với bạn bè và
trả tiền trước chuyến đi chắc tôi đã không đi. Trong lòng không vui vì các bạn
tôi trong nước đang gặp khó khăn lớn, chẳng còn lòng dạ nào để du lịch. Chuyến
đi đã chỉ là một dịp để suy nghĩ.
Một
đảo nhỏ dầy đặc lịch sử
Xin
nói qua về đảo Crete. Nó là hòn đảo lớn thứ năm trong biển Địa Trung Hải với
62.000 dân và diện tích 8.300 km2 trải dài như một chiếc lá tre từ Đông sang
Tây. Đặc điểm đầu tiên của nó là nằm chính giữa Địa Trung Hải với khoảng cách bằng
nhau tới ba lục địa Á, Âu và Phi. Chính vị trí đặc biệt đó đã khiến đảo Crete bị
mọi thế lực tranh giành trong những cuộc chiến đẫm máu từ 5.000 năm nay.
Mycenae, La Mã, Byzantium, Venice, Ottoman, Thế Chiến II. Tôi đã thăm hai di
tích chiến tranh ; trong một trận đánh khoảng 400 người Crete đã xông vào đánh
quân xâm lược cho tới người lính cuối cùng, trong một trận khác cả một thị trấn
bị quân Thổ bao vây đã kháng cự đến cùng, khi hết lương thực thì tự tử hết chứ
không đầu hàng. Địa lý ưu đãi đã là một tai họa cho người Crete.
Lịch
sử của Crete, nhất là lịch sử lập quốc, còn lạ lùng và phong phú hơn nhiều. Từ
năm 1913 Crete là một tỉnh của Hy Lạp. Điều này hợp lý vì sau nhiều trao đổi
liên tục trong hơn 4.000 năm Crete và Hy Lạp, vốn có nguồn gốc gần gũi, đã có
cùng một ngôn ngữ và văn hóa ; sáp nhập vào Hy Lạp cũng tránh cho Crete khỏi là
mồi ngon cho những tham vọng bành trướng, trừ thời gian ngắn ngủi bị quân Đức
Quốc Xã xâm chiếm trong Thế Chiến II.
Các
nhà khảo cổ đã tìm thấy ở đây những dụng cụ đồ đá do con người làm ra từ
130.000 năm. Tuy vậy dấu vết của sinh hoạt cộng đồng chỉ rõ rệt từ khoảng 7.000
năm, nghĩa là từ thiên niên kỷ thứ 6 trước Công Nguyên (trước công nguyên). Những
con người tiền sử này đã xây dựng lên những thị trấn lớn và đẹp với kiến trúc
quy củ như Knossos, Phaisto, Gorthyn v.v. và đã tạo ra trên hòn đảo nhỏ này một
trong những nền văn minh lớn đầu tiên trên thế giới, gần như cùng thời với Ai Cập
và Hy Lạp như những di vật trong các viện bảo tàng chứng tỏ. Tại viện bảo tàng
Rethymnon người ta có thể thấy những dụng cụ và vũ khí tinh vi và đẹp ngay từ
5.000 năm trước công nguyên. Nền văn minh của Crete đã đạt tới cao điểm vào thế
kỷ 18 trước công nguyên rồi bị tàn phá vì núi lửa bùng nổ trên đảo vào khoảng
năm 1.450 trước công nguyên. Sức mạnh của Crete có lúc đã lấn át cả Hy Lạp, bằng
chứng là theo huyền thoại cổ Hy Lạp thì Zeus (hay Jupiter), Thượng Đế của cổ Hy
Lạp, đã sinh ra trên đảo này. Crete cũng là một trong những dân tộc đầu tiên đã
phát minh ra chữ viết, mới đầu là chữ tượng hình (hieroglyph) sau đó là chữ tượng
âm (linear). Crete cũng là nhà nước pháp trị rõ rệt đầu tiên trên thế giới. Tại
Gorthyn vẫn còn một bộ dân luật dài 600 dòng khắc trên tường đá vào thế kỷ 6
trước công nguyên ghi khá chi tiết những gì các công dân có thể và phải làm.
Crete thời xưa đã có bao nhiêu người để đạt đạt được những thành tích kỳ diệu
đó ? Đến bây giờ mà Crete cũng chỉ có hơn 62.000 dân thì lúc đó tối đa chỉ có
thể có từ 5.000 đến 10.000 người là cùng.
Những
người Crete đầu tiên đã đến Crete từ lúc nào và từ đâu ?
Căn
cứ vào những dụng cụ bằng đá đã tìm được nhiều nhà khảo cổ kết luận là họ đã đến
đây từ 130.000 năm, nhưng kết luận này không giải quyết được một mâu thuẫn lớn
vì những người Crete đầu tiên chỉ có thể đến đây bằng thuyền trong khi kỹ thuật
đóng thuyền và đi biển chỉ có từ khoảng 10.000 năm trước công nguyên. Hơn nữa lại
không có dấu tích sinh hoạt nào trước 6.000 năm trước công nguyên. Làm sao có
người sinh sống mà lại không có dấu vết sinh hoạt nào trong hơn 120.000 năm ?
Giả thuyết hợp lý nhất là những người đầu tiên đã đến đây từ 6.000 năm trước
công nguyên mang theo những dụng cụ của tổ tiên để lại trong đó có những dụng cụ
được làm ra từ 130.000 năm.
Họ
đến từ đâu ? Các nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng họ đến từ vùng Anatolia, còn gọi
là Tiểu Á (Asia Minor), thuộc Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ.
https://thongluan-rdp.org/images/crete2.jpg
Bộ
dân luật khắc trên tường đá thế kỷ 6 trước công nguyên
Nhìn
lại các đợt di dân trong lịch sử thế giới…
Câu
hỏi lớn nhất là lý do nào đã khiến họ phải cùng nhau ra đi bỏ vùng Anatolia ?
Câu hỏi này rất quan trọng và cần được suy nghĩ. Các học giả đều đồng ý số người
di dân rời Anatolia rất đông và đã có cả một phong trào di dân liên tục trong
nhiều thế kỷ ; một phần lớn người Hy Lạp cũng đến từ đây. Xét cho cùng thì trong lịch sử nhân loại
chỉ có hai lý do chính cho các làn sóng di dân : hoặc là thay đổi môi trường và
khí hậu, hoặc là do hệ thống chính trị và tôn giáo. (Cũng nên lưu ý là
vào thời cổ đại tôn giáo và chính trị gần như chỉ là một). Không có dấu hiệu
nào chứng tỏ đã có thay đổi môi trường đáng kể nào tại vùng Anatolia cả, vậy lý
do chỉ có thể là chính trị, nghĩa là nhiều người đã rủ nhau ra đi vì tổ chức xã
hội không còn phù hợp với họ, có thể vì chính quyền trở thành quá hung bạo,
cũng có thể vì họ đã tìm ra một tín ngưỡng hay một nếp sống mới mà chế độ đương
thời không dung túng. Đó đã là lý do khiến dân Do Thái rời bỏ đất Ai Cập để đi
tìm một quê hương mới trong vùng Canaan. Đó cũng đã là lý do khiến những người
theo đạo Tin Lành rủ nhau bỏ các nước Châu Âu la tinh để đến Hà Lan, Mỹ và Nam
Phi. Một bộ phận lớn của người Hoa tại Việt Nam tự gọi là và được gọi là Đường
Nhân vì họ bỏ nước Trung Hoa khi nhà Tống cướp ngôi nhà Đường. Tại nước ta hai đợt di dân lớn nhất gần
đây -sau năm 1954 gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam và sau năm 1975
hơn ba triệu người bỏ nước ra đi, trong đó hơn nửa triệu người bỏ mình trên biển
cả- đều vì muốn tránh chế độ cộng sản.
Kết
quả của các đợt di dân là khiến các nước bị rời bỏ mất đi thành phần tiến bộ và
năng động, rồi dần dần sa lầy trong thua kém. Anatolia đã từng là cái nôi chính
của nền văn minh cận đại. Thalès, nhà toán học và triết học lớn đầu tiên của
nhân loại, đã sinh ra và sống tại đây vào thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, trước
rất lâu những Pythagore, Socrates, Plato, Aristotle, Archimedes etc. Ngay sau
Thalès Anatolia cũng đã có hai triết gia lớn Anaximandre và Anaximene (thế kỷ 6
trước công nguyên) và nhà thơ lớn Timothy (thế kỷ 5 trước công nguyên). Nói
chung cho đến thế kỷ 5 trước công nguyên Anatolia vượt hẳn phần còn lại của thế
giới về khoa học, tư tưởng và văn học, nhưng vì mất dần thành phần ưu tú
Anatolia đã dậm chân tại chỗ và bị tụt hậu ; sau cùng bị quân Mông Cổ thống trị
và tiêu diệt. Ngày nay đại đa số người Thổ Nhĩ Kỳ, trong đó Anatolia là phần lớn
nhất và tiến bộ nhất, là người gốc Mông Cổ. Với một địa lý thuận lợi bậc nhất
thế giới Thổ vẫn còn đang quằn quại trong cái "bẫy thu nhập trung
bình" với một GDP/đầu người khoảng 13.000 USD, chưa bằng một nửa trung
bình tại Tây Âu. Nói chung nếu điều may mắn cho một quốc gia là thu hút được những
con người ưu tú thì điều không may nhất cũng là mất đi, mất hẳn hay vẫn còn
nhưng không sử dụng được, những con người này.
…và
trường hợp Việt Nam
Bây
giờ hãy nhìn lại nước ta.
Như
đã nói ở phần trên chúng ta đã có hai đợt di dân sau năm 1954 rồi sau năm 1975.
Trong cả hai đợt này những người bỏ quê cha đất tổ ra đi nói chung thuộc thành
phần tinh nhuệ hoặc có phương tiện trên mức trung bình. Tất cả đã ra đi vì thấy
không thể sống dưới chế độ cộng sản. Nếu có một chút lương tri thì Đảng Cộng Sản
đã phải rất ăn năn và khiêm tốn trước mất mát vô cùng to lớn cho đất nước này
mà chính họ là nguyên nhân, chưa kể là họ đã gây ra cuộc nội chiến 30 năm hoàn
toàn vô lý làm đất nước tan tành và sáu triệu người chết.
Hiện
nay chúng ta cũng đang có một đợt di dân mới của những người được đem đi
"xuất khẩu lao động", những du học sinh và thực tập sinh, bởi vì đa số
những người này không muốn trở lại Việt Nam và tìm mọi cách để ở lại nước
ngoài, một phần đáng kể thành công.
Theo
số liệu của chính quyền cộng sản thì hiện có 5,3 triệu người Việt sống ở nước
ngoài, đại bộ phận mới rời Việt Nam gần đây. Con số này chắc chắn là sai vì nó
chỉ cộng những người ra đi chứ không kể những người Việt sinh ra ở nước ngoài,
con cháu của những người ra đi, đông hơn hẳn những người đã chết. Một thí dụ là
chính gia đình tôi. Hơn 40 năm về trước 15 đứa cháu tôi rủ nhau vượt biên trên
một con thuyền nhỏ do chính tôi thiết kế ; bây giờ tất cả đều đã có con, một số
đã có cháu nội, ngoại. Tôi hiện có gần 100 cháu và chắt tại Mỹ. Cộng đồng người
Việt hải ngoại đông hơn hẳn con số 5,3 triệu này, trong đó hàng triệu người tốt
nghiệp đại học thuộc đủ mọi ngành nghề, làm việc trong đủ mọi địa hạt, thử nghiệm
mọi mô hình tổ chức xã hội. Đây là một tài nguyên vô cùng lớn mà nước ta không
thể để mất mà phải tìm mọi cách để giữ lấy.
Cộng
đồng người Việt hải ngoại đang mất căn cước Việt Nam một cách quá nhanh chóng,
nhanh chóng hơn mọi cộng đồng hải ngoại khác. Nhiều người chưa nói thạo tiếng
nước nhập cư nhưng con cái đã quên tiếng Việt và đôi khi không còn mang tên Việt
Nam. Lý do chính của tình trạng bi đát này là đối với đại đa số người Việt hải
ngoại Việt Nam là một kỷ niệm buồn, thậm chí một lý do để phẫn nộ, cần quên đi. Hòa giải đất nước Việt Nam với cộng
đồng người Việt hải ngoại là một nhu cầu lớn và khẩn cấp mà chỉ có một chế độ
dân chủ mới làm được.
Sau
cùng còn có một số đông hơn nhiều những người di dân tại chỗ, những người vẫn ở
trong nước nhưng đã bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nước ta có 100 triệu dân nhưng chỉ có 5 triệu đảng viên cộng
sản có quyền công dân, không
khác gì xã hội Crete và Hy Lạp trước đây trong đó chỉ có một thiểu số có quyền
công dân, phần còn lại là thứ dân hay nô lệ. Kinh tế Việt Nam, theo hiến pháp
hiện nay của chế độ cộng sản, lấy quốc doanh làm chủ lực ; đất đai, rừng núi, sông hồ, bờ biển
và biển thuộc nhà nước. Và nhà nước thuộc độc quyền sở hữu của Đảng Cộng Sản. Trong tất cả các cơ
quan nhà nước và các xí nghiệp quốc doanh, kể cả các trường học và bệnh viện, mọi
chức vụ từ phó phòng trở lên đều chỉ dành cho đảng viên cộng sản. Trong quân đội
và công an mọi cấp bậc từ hạ sỹ quan trở lên đều phải là đảng viên cộng sản.
Chúng ta là một dân tộc 100 triệu người nhưng chỉ 5 triệu người cộng sản được tận
dụng, 95% trí tuệ và sinh lực quốc gia bị loại bỏ. Đảng Cộng Sản hành xử như một
lực lượng chiếm đóng. Ngay cả các chế độ ngoại thuộc, dù là Bắc thuộc trước đây
hay Pháp thuộc gần đây, cũng không tàn nhẫn đến thế.
Không chỉ
là một lực lượng chiếm đóng, Đảng Cộng Sản còn là một lực lượng chiếm đóng cực
kỳ hung bạo.
Có những người chẳng có tội gì mà đã ở tù gần hết cuộc đời chỉ vì không cúi đầu
trước Đảng Cộng Sản. Gần đây Trần Huỳnh Duy Thức đã chỉ có ý định thành
lập một đảng ôn hòa mà bị tù ngục 16 năm, mất nửa đời thanh xuân ; Phạm Thị
Đoan Trang, một phụ nữ yếu bệnh và tàn tật, bị xử 9 năm tù chỉ vì viết vài
cuốn sách vô hại nhưng không được Đảng cho phép ; Nguyễn Năng Tĩnh 11
năm tù và Đặng Đăng Phước 9 năm tù chỉ vì hai giáo viên dạy nhạc này đã
hát những bài mà Đảng Cộng Sản không thích ; Nguyễn Trung Tôn, một mục
sư Tin Lành, bị 12 năm tù vì tham gia thành lập một hội với cái tên hiền lành
là Hội Anh Em Dân Chủ dù tuyệt đối chưa làm gì ; Phạm Văn Trội đã ở tù 7
năm sau những cáo buộc vu vơ, Lê Anh Hùng bị nhốt vào bệnh viện tâm
thần như Nguyễn Thúy Hạnh một phụ nữ hiền lành và khả ái. Đó chỉ là một
vài thí dụ, đang còn hàng trăm tù nhân lương tâm khác. Tội duy nhất của họ là
đã là những người quý hiếm còn quan tâm tới tương lai đất nước.
https://thongluan-rdp.org/images/crete3.jpg
Chuẩn
bị cho hạn kỳ dân chủ có nghĩa là cố gắng học tập và thảo luận để đạt tới một đồng
thuận trên một dự án tương lai cho đất nước và tìm ra những con người cần thiết
cho tương lai đó. Và cũng để mọi người Việt Nam thuộc mọi quá khứ nhìn lại nhau
là anh em và cùng nắm tay nhau xây dựng một tương lai Việt Nam chung và chia sẻ
một giấc mơ Việt Nam chung.
Mở
đầu bài này tôi đã nói rằng cuộc thăm viếng đảo Crete của tôi không có gì vui
vì các bạn tôi trong nước đang chịu đựng một thử thách rất lớn. Quả thực như thế.
Trong mấy tháng qua nhiều anh em đã bị thẩm vấn tại đồn công an, nhiều khi bị bắt
từ sáng sớm khi họ chuẩn bị đi làm. Hai người bị đánh, một người bị bắt giam từ
hơn một tháng nay và truy tố theo điều 117 của bộ luật hình sự ác ôn của chế độ
cộng sản. Công an đến cả nơi họ làm việc để quấy rầy. Công an Sài Gòn tỏ ra
hung dữ hơn hẳn công an Hà Nội, dù đa số là những người đến từ miền Bắc, có lẽ
là vì Đảng Cộng Sản coi miền Nam là vùng đất chưa chắc chắn nên đã gửi vào những
công an cứng rắn nhất. Tất cả những chí hữu và thân hữu của Tập Hợp Dân Chủ Đa
Nguyên này đều là những người ôn hòa, lương thiện, hiểu biết, yêu nước và bao
dung. Họ đã đến với Tập Hợp vì những giá trị đó, vì dân chủ đa nguyên, hòa giải
và hòa hợp dân tộc, từ chối bạo lực là lý tưởng của Tập Hợp từ ngày thành lập.
Họ hiểu là đất nước cần dân chủ đa nguyên để có tương lai nhưng họ cũng hiểu là
đất nước cần một cố gắng hòa giải rất lớn để hàn gắn những vết thương do quá khứ
để lại. Ho không làm bất cứ gì để một nhà nước bình thường, chưa nói một nhà nước
tốt, phải lo lắng. Dù vậy họ đã gặp khó khăn vì đất nước này không bình thường,
đang bị chiếm đóng bởi một lực lượng quá hung bạo. Không phải là không có những
người công an tốt, những người công an tốt này khuyên họ đừng quan tâm tới đất
nước nữa mà hãy chỉ lo cho bản thân và gia đình thôi. Đó cũng là những lời
khuyên mà trước đây nhiều quan chức Pháp tốt bụng trong thời Pháp thuộc đã nói
với các thanh niên Việt Nam yêu nước.
Thành
quả lớn nhất của Đảng Cộng Sản là đã khiến người Việt Nam chán đất nước Việt
Nam. Mộng ước của rất nhiều người hiện nay là được rời Việt Nam để làm dân một
nước khác.
Chuẩn
bị hạn kỳ dân chủ
Đất
nước ta đang tan rã trong lòng người. Nhu cầu dân chủ hóa đất nước không chỉ
hoàn toàn đúng mà còn rất khẩn cấp, cuộc vận động dân chủ cũng là cuộc đấu
tranh cứu nước.
Chúng
ta đang đứng trước một thử thách lớn đồng thời cũng là một vận hội lớn. Chế độ
này đã tích lũy quá đủ mâu thuẫn để phải cáo chung dù người nào hay phe nào thắng
trong cuộc đấu đá nội bộ đang ngày càng gay gắt. Hạn kỳ dân chủ đã rất gần. Điều
cần được lưu ý, như những bài học lịch sử cay đắng của nước ta trong hơn ba phần
tư thế kỷ qua đã chứng tỏ, là một cơ hội dù lớn và thuận lợi đến đâu cũng chỉ
là một cơ hội cho những ai đã chuẩn bị sẵn sàng để chờ đón nó.
Chuẩn
bị cho hạn kỳ dân chủ có nghĩa là cố gắng học tập và thảo luận để đạt tới một đồng
thuận trên một dự án tương lai cho đất nước và tìm ra những con người cần thiết
cho tương lai đó. Để lập tức mọi người Việt Nam thuộc mọi quá khứ nhìn lại nhau
là anh em và cùng nắm tay nhau xây dựng một tương lai Việt Nam chung và chia sẻ
một giấc mơ Việt Nam chung.
Nguyễn
Gia Kiểng
(31/10/2024)
No comments:
Post a Comment