Tại
sao Mỹ khác Mexico, Peru hay Brazil?
07/11/2024
https://www.voatiengviet.com/a/tai-sao-my-khac-mexico-peru-hay-brazil-/7855177.html
Bài
trước trong mục này bàn về Giải Nobel Kinh tế năm 2024, trao cho James
Robinson, Daron Acemoglu (Đại học MIT), và Simon Johnson (Đại học Chicago). Họ
đã tìm hiểu tại sao kinh tế các nước phát triển cao thấp khác nhau, chú ý đến
kinh tế Mỹ, Canada so với các nước châu Mỹ La Tinh, như Mexico, Peru hay
Brazil.
https://gdb.voanews.com/01000000-c0a8-0242-a231-08dcc9f8790e_w1023_r1_s.jpg
Sĩ
quan tuần tra biên giới, Pete Bidegain, nhìn từ đỉnh đồi ở phía lãnh thổ Mỹ tại
thị xã Nogales, ở biên giới Mỹ - Mexico, tháng Sáu, 2024. (AP Photo/Jae C.
Hong, Pool)
Ba
giáo sư kinh tế học thấy nguyên do quan trọng nhất là các định chế xã hội khác
biệt trong các xã hội đó: Dân Mỹ và Canada dựng lên những định chế kinh tế và
chính trị cho mọi người có cơ hội như nhau (inclusive institution). Các nước
kia nuôi dưỡng các định chế cho một thiểu số cầm đầu nhằm khai thác những người
khác (extractive institutions).
Cách
trình bày gọn gàng như vậy, trừu tượng và khô khan, có lẽ bất công đối với ba
người mới lãnh giải. Phần lớn những người được trao Giải Nobel về Kinh tế học đều
“viết văn” rất hay, không thua các người viết chuyên nghiệp. John Kenneth
Galbraith, Milton Friedman, Daniel Kahneman, Paul Robin Krugman đều diễn tả các
ý kiến của họ sáng sủa, linh động, có khi còn hài hước. Daron Acemoglu và James
Robinson cũng vậy, họ đã mở đầu cuốn sách “Tại sao các quốc gia thất bại” (Why
Nations Fail: The Origins of Power, Prosperity, and Poverty) xuất bản năm 2012,
với những hình ảnh rất cụ thể trong cuộc sống của hai thị xã nằm trên đường
biên giới Mỹ - Mexico.
Từ
trang đầu tiên hai tác giả viết: “Thị xã NOGALES bị cắt làm đôi với một cái
hàng rào.” Phía Bắc là Nogales thuộc Tiểu bang Arizona, Mỹ, lợi tức bình quân
$30,000 đô la. Ở đó trẻ em thường đi học; đa số dân đã qua bậc trung học, tương
đối mạnh khỏe; mọi người quen dùng điện, điện thoại, nhà có cống thoát nước thải,
vân vân.
Qua
bên Mexico, chỉ cách nhau mấy bước chân qua hàng rào, cuộc sống ở Thị xã
Nogales thuộc Sonora khác hẳn. Lợi tức bình quân bằng một phần ba bên Mỹ; nhiều
đứa trẻ không đến trường; người lớn thường không học hết trung học, tuổi thọ
trung bình thấp hơn; đường xá xấu; nhiều trộm cướp; muốn mở một cửa hàng cũng
khó, thường phải hối lộ.
Hai
thị xã cùng tên Nogales hồi xưa vốn chỉ là một. Dân ở hai bên cùng một gốc tổ
tiên, đồ ăn thức uống như nhau, nghe và hát cùng một loại âm nhạc, có thể nói họ
chung một nền văn hóa. Cách sống hai bên biên giới dần dần thay đổi sau khi những
người Tây Ban Nha chiếm Mexico (và một số nước Nam Mỹ) rồi người từ Anh Quốc đến
vùng Virginia ở phía Bắc. Nước Mỹ thành hình sau cuộc cách mạng 1776; Mexico đã
độc lập với Tây Ban Nha từ năm 1821. Nogales chỉ bị tách làm hai sau hòa ước
năm 1853 kết thúc cuộc chiến tranh Mỹ - Mexico.
Khi
người Tây Ban Nha rủ nhau di cư sang châu Mỹ, họ đều nhắm tìm vàng, hay bạc. Những
tay “thực dân” này không có ý định tự bỏ sức mình khai thác quặng mỏ. Họ mang
theo súng đạn mạnh hơn dân bản địa, có thể cưỡng bách thổ dân làm việc cho
mình. Khi mới đến Mexico bây giờ và các vùng phía Nam, di dân được các ông vua
đón tiếp niềm nở. Nhưng họ đã bắt cóc các thủ lãnh địa phương, tra tấn để cướp
lấy vàng bạc của họ. Trước đó, những thủ lãnh này đã tích trữ được nhiều vàng bạc
vì dùng vũ lực bắt dân làm việc cho mình. Các thủ lãnh di dân tiếp tục sử dụng
hệ thống cưỡng bách đó sau khi khuất phục được các lãnh chúa địa phương. Họ bắt
các thổ dân làm sưu dịch, cống tiến, đóng thuế như cũ. Tất cả đám dân bổn địa,
từ ông vua, thư lại, cho đến dân thường đều trở thành nô lệ cho các ông chủ mới.
Đám
di dân gốc Anh quốc không may mắn như những người Tây Ban Nha ở Nam bán cầu,
hay người Bồ Đào Nha ở Brazil. Người Anh, sau các cuộc chiến tranh và nội chiến,
tìm qua châu Mỹ chậm hơn đành phải chọn qua lục địa ở phía Bắc, đến lập nghiệp
trong vùng Jamestown, tiểu bang Virginia bây giờ. Công việc khai khẩn do The
Virginia Company, một công ty ở nước Anh làm chủ, tuyển mộ và cấp tàu thuyền
cho các di dân. Nhưng các người mới tới phải đối diện với các lãnh tụ địa
phương mạnh và quyết tâm bảo vệ đất đai, quyền lợi của họ. Ông vua
Wahunsunacock đang làm chủ một đế quốc rộng gần khắp Bắc Mỹ, đã chống cự mạnh mẽ.
Ông bắt được Đại úy John Smith nhưng tha, nhờ cô công chúa Cotahontas can thiệp;
nhưng vẫn không cung cấp thực phẩm cho đám di dân đang cầu cứu. Mùa Đông 1609,
di dân ở Jamestown chết đói, 500 chỉ còn sống sót 60 người.
John
Smith kết luận phải làm lấy mà ăn. Ông đặt ra quy tắc: “He that will not work
shall not eat,” ai không làm thì không được ăn, giống như một “thanh quy” của
Thiền Sư Bách Trượng, “Bất tác bất thực!” John Smith viết thư xin Virginia
Company gửi qua thêm hàng ngàn di dân mới làm đủ các nghề, từ nhà nông, thợ mộc
thợ nề, thợ đốn gỗ, người chăn nuôi thú vật, vân vân. Công ty tự coi họ làm chủ
tất cả ruộng đất đã chiếm được của dân địa phương. Di dân bị tập trung trong
các trang trại, phải sản xuất cho đủ chỉ tiêu, như trong các “nông trường tập
thể.” Họ sống tình trạng giới nghiêm, ai bỏ trốn sẽ bị tuyên tử hình.
Hai
người được công ty gửi qua quản trị công cuộc khai thác là Thống đốc Thomas
Gates với Thomas Dale làm phó. Họ đặt ra các luật lệ nghiêm khắc, ai trộm cắp
hoặc bán nông sản ra nước ngoài có thể bị tử hình. Nhưng Virginia Company không
thể kiểm soát được tất cả mọi di dân, ở các vùng Virginia, cũng như Baltimore,
North Carolina vì dân chúng có thể sống tự do. Đất rộng, người thưa, ai muốn tự
lập có thể bỏ trốn, tìm những mảnh đất ở xa, tự mình khai thác. Bắc Mỹ lúc đó
còn rất thưa dân, mật độ khoảng 3 người trên 4 cây số vuông; trong khi tại
Mexico hoặc trên miền núi Andes ở Peru mật độ là 400 người một cây số vuông.
Từ
năm 1618 Công ty Virginia Company thấy chính sách thực dân của họ không hiệu quả,
phải thay đổi. Cần khích lệ cho di dân làm việc và sản xuất. Họ bãi bỏ chính
sách “nông trường tập thể” như trên; bắt đầu phân phát cho dân một số ruộng đất
để tự canh tác. Dân đã đòi Thống đốc Lord Baltimore phải cho hội họp để thảo luận
các luật lệ chung sống. Năm sau, các trại chủ họp Đại hội đồng. Đó là bước khởi
đầu cho các định chế dân chủ ở Bắc Mỹ.Năm 1691, Đại hội đồng xin vua nước Anh
thay đổi quy chế chính trị, xóa bỏ nhiều quyền hành của đại diện nhà vua. Năm
1721 quy chế vùng Carolinas cũng thay đổi. Dần dần, cả 13 thuộc địa ở Bắc Mỹ
theo cùng một định chế, có một vị thống đốc do nhà vua cử và đại hội đồng do
các người làm chủ ruộng đất bầu lên. Những người không có ruộng, phụ nữ và nô lệ
không có quyền như các trại chủ.
Các
định chế cho phép người dân được tham dự các quyết định trong cuộc sống tập thể
được duy trì và phát triển trong vùng Bắc Mỹ trong nhiều thế kỷ. Trong thời
gian đó Mexico và các vùng đất phía Nam vẫn theo nếp cũ: Các thủ lãnh “thực
dân” cưỡng bức dân bản địa làm việc và đóng sưu thuế, sử dụng các “định chế
khai thác” (extractive institutions) như các lãnh chúa đời trước.
Những
cải cách định chế ở Bắc Mỹ cho phép người dân tham dự dần dần phát triển, tạo
môi trường cho cuộc cách mạng giành độc lập và chế độ dân chủ ra đời, tồn tại
cho đến nay.
Daron
Acemoglu và James Robinson mô tả sự khác biệt giữa hai thị xã cùng mang tên
Nogales, do ảnh hưởng của hai loại định chế xã hội đã thành hình từ thế kỷ 17.
Chế độ tự do dân chủ là nguyên nhân chính khiến dân hai thị xã sống cách biệt hẳn
nhau. Ngoài trình độ chênh lệch về lợi tức, tiện nghi, học vấn, dân Nogales thuộc
Tiểu bang Arizona thường không bị trộm cắp, không lo phải hối lộ. Họ được luật
pháp và cảnh sát bảo vệ. Lý do chính là họ có thể bỏ phiếu chọn người lên cầm
quyền, ai không thực sự làm việc cho dân sẽ thất cử. Tai thị xã Nogales thuộc
tiểu bang Sonora, cũng như cả nước Mexico, chỉ có một đảng chính trị nắm quyền
hàng thế kỷ, đến năm 2000 mới được thay đổi. Năm nay, một phụ nữ đắc cử tổng thống
Mexico; lần đầu tiên ở Bắc Mỹ - nếu không kể các bà đã làm quốc trưởng và thủ
tướng Canada.
No comments:
Post a Comment