Phát triển kinh tế: Trung Quốc không còn dẫn đầu cuộc đua trước Ấn Độ
và Indonesia
Huỳnh Thiện Quốc
Việt dịch
05/03/2023
http://www.phantichkinhte123.com/2023/03/phat-trien-kinh-te-trung-quoc-khong-con.html#more
Tổng thống Indonesia Joko
Widodo trao lại chức chủ tịch G20 cho Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, tại hội
nghị thượng đỉnh ở Bali, ngày 16/11/2022. (Nguồn: CNN)
Năm 2022 là một thời điểm bản
lề đối với Châu Á đang phát triển. Cuộc đua dẫn đầu của người Trung Quốc đã đến
hồi kết và động thái trong khu vực đang thay đổi. Đây là điều nổi bật khi so
sánh Trung Quốc với hai nền kinh tế chính đang phát triển khác của lục địa châu
Á: Ấn Độ và Indonesia. Một so sánh dựa vào chín nhân tố then chốt về phân tích
kinh tế và nhân khẩu học.
Hãy
bắt đầu với hai ảnh chụp nhanh. Theo ước tính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF),
vào năm 2022, Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia chiếm ít hơn 23% một chút GDP thế
giới, tính theo đồng US$ hiện hành. Cũng các nước này chiếm 39% dân số thế giới.
So với năm 1980, bức tranh đã khác về cơ bản: tỷ trọng GDP của ba nước nói trên
chỉ ở mức 5,2% GDP thế giới. Ngược lại, tỷ trọng dân số của ba nước nói trên đã
chiếm tới 41% dân số thế giới vào thời điểm đó.
Về mặt
GDP, rõ ràng chính Trung Quốc là nước đã đạt được hầu hết các tiến bộ trong hơn
42 năm. Tỷ trọng tương đối của Trung Quốc trong bộ ba nước châu Á đạt 51% vào
năm 1980. Khi đó, tỷ trọng này tương đương với tỷ trọng của Ấn Độ cộng với Indonesia.
Đến năm 2022, tỷ trọng tương đối của Trung Quốc đã tăng lên 79%, trong khi tỷ
trọng dân số của bộ ba nước này đã bắt đầu giảm, từ 54% xuống 45%. Giờ đây, hãy
chuyển từ ảnh chụp nhanh đến phần phân tích, với chín nhân tố so sánh then chốt.
TĂNG TRƯỞNG:
HỒI KẾT CỦA NGOẠI LỆ TRUNG QUỐC
Kể từ
đầu thế kỷ này, động thái tương ứng của ba nước về tăng trưởng GDP đã trải qua
những thay đổi quan trọng đáng kể. Tăng trưởng GDP của Trung Quốc đã giảm xuống
một nấc thang đầu tiên kể từ năm 2011, khi bắt đầu giảm dưới mốc 10% hàng năm,
để đạt một tốc độ tăng trưởng 6% vào năm 2019, thời kỳ mà Tập Cận Bình đã mô tả
là “điều bình thường mới”. Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế dịch vụ, tốc độ
tăng trưởng chậm trong lãnh vực đầu tư sản xuất và xuất khẩu không còn cho phép
Trung Quốc duy trì những thành tựu ngoại lệ của “ba thập kỷ vinh quang” trước
đây.
Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Nền
kinh tế Trung Quốc đã chịu đựng cú sốc đại dịch, một cách rất tốt, trong
năm 2020 và 2021, trước khi vấp ngã vào năm 2022 với tác động tai hại của chính
sách “không Covid” được duy trì bất chấp sự đột biến của virus. Người ta ghi nhận
một sự phục hồi tăng trưởng, vào đầu năm 2023, sau khi nới lỏng chính sách chăm
sóc y tế cứng nhắc vô lý này vào tháng 11 năm ngoái. Nhưng Trung Quốc sẽ không
trở lại mức tăng trưởng của những năm 2015-2019. Đối với các chuyên gia của IMF
và Ngân hàng Thế giới, GDP của Trung Quốc sẽ giảm xuống một nấc thang thứ hai,
với một tiềm năng tăng trưởng hàng năm từ 4 đến 5% trong thập kỷ hiện tại. Gánh
nặng nhân khẩu học, tốc độ đô thị hóa chậm lại, chính sách ưu tiên dành cho các
doanh nghiệp quốc doanh, cuộc chiến công nghệ với Hoa Kỳ, đều là những thách thức
sẽ làm chậm quá trình bắt kịp của Trung Quốc, ngay cả khi mức giàu có trên đầu
người dân của đất nước vẫn còn xa với mức trung bình của OECD [Organisation for
Economic Co-operation and Development – Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế].
Một
cuộc tranh luận đang diễn ra sôi nổi giữa các nhà kinh tế học về khả năng Trung
Quốc vượt mặt Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Ngân hàng
Goldman Sachs vừa lùi lại ngày Trung Quốc leo lên vị trí số một này đến năm
2035 (mười năm trước, họ đã tính Trung Quốc sẽ vượt mặt Hoa Kỳ vào năm 2025) và
Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Nhật Bản (JCER) thậm chí còn đưa ra một nhận định
còn bi quan hơn. Theo JCER, nền kinh tế Trung Quốc rốt cuộc sẽ không vượt qua nền
kinh tế Mỹ, bởi tốc độ tăng trưởng của nước này sẽ diễn ra rất chậm trong khoảng
10 năm tới (xoay quanh mức 1%/năm) dưới tác động của cuộc khủng hoảng nhân khẩu
học mà nước này đang trải qua.
Ấn Độ
đã trải qua một thời kỳ tăng trưởng mạnh với tỷ trọng GDP xoay quanh mức 8%/năm
trong thập niên đầu của thế kỷ này, trước khi hứng chịu một cú sốc khá dữ dội
trong cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008. Tỷ trọng GDP 8%/năm là mức
mà các nhà kinh tế của OECD và Ngân hàng Thế giới cân nhắc như là mức mà đất nước
của Narendra Modi có thể đạt được ở mức phát triển vào thời điểm khi đó. Nhưng
kể từ cuộc khủng hoảng tài chính, tốc độ tăng trưởng của Ấn Độ đã kém ổn định
hơn và khiêm tốn hơn cho đến năm 2019, với tốc độ tăng trưởng trung bình không
vượt quá 6,5%, đặc biệt do tỷ trọng đầu tư cho sản xuất tăng trưởng ít hơn. Ấn
Độ đã phải hứng chịu cú sốc đại dịch rất nặng với mức suy thoái -6,6%, vào năm
2020. Năm 2022, nước này đang trong quá trình lấy lại tiềm năng tăng trưởng, bất
chấp cú sốc thứ hai do chiến tranh ở Ukraine gây ra. Trong trung hạn, tốc độ
tăng trưởng của Ấn Độ có thể tiếp tục ở mức trước đó (6,5%), hoặc thậm chí ở tốc
độ cao hơn, nếu chính phủ thành công trong việc huy động được sự đầu tư cho sản
xuất nhiều hơn.
Về
phần Indonesia, họ đã có mức tăng trưởng GDP ổn định rất đáng kể, ở mức từ 5 đến
5,5% trong 15 năm qua. Sau cú sốc đại dịch, giống như Ấn Độ, họ đang bước vào
quá trình tìm lại tốc độ tăng trưởng trước đó. Một tốc độ mà các nhà kinh tế quốc
tế và chính phủ Ấn Độ đều coi là chưa đủ. Nếu Indonesia có thể đẩy nhanh các
chương trình về xây dựng cơ sở hạ tầng và hội nhập nhiều hơn vào các chuỗi cung
cứng giá trị toàn cầu, thì mức tăng trưởng khoảng 7% được coi là mức khả dĩ đạt
được.
Nói
chung, Trung Quốc không còn dẫn đầu cuộc đua. Trong số ba nước khổng lồ của
châu Á đang phát triển, từ nay Ấn Độ có tiềm năng tăng trưởng quan trọng nhất
trước Indonesia, với điều kiện là hai nước này có thể tránh được những cám dỗ của
chủ nghĩa dân tộc và nguy cơ chia rẽ nội bộ.
HIỆU ỨNG
GIÀU CÓ: GIỚI TRUNG LƯU ĐANG TĂNG DẦN Ở BA NƯỚC
Để
đánh giá khoảng cách giàu nghèo giữa cư dân của ba Nhà nước, bảng xếp hạng thế
giới trước tiên giữ lại tiêu chí sức mua quốc tế của cư dân, được đo bằng đồng
US$ hiện hành. Về tiêu chí này, từ nay, Trung Quốc là nước được xếp hạng ở vị
trí rất gần với nhóm các nước có thu nhập cao, với GDP danh nghĩa bình quân đầu
người là 12.556 US$ vào năm 2021, ngưỡng của Ngân hàng Thế giới (về thu nhập
bình quân đầu người, tức là một tiêu chí hơi khác một chút) là 12.695 US$ vào
cùng thời điểm. Indonesia là nước đứng ở vị trí vừa đủ ngưỡng của nhóm các nước
có “thu nhập trung bình cao” với GDP bình quân đầu người là 4.292 US$ vào năm
2021, và Ấn Độ nằm trong nhóm các nước có “thu nhập trung bình thấp”, với GDP
bình quân đầu người là 2.227 US$, tương đương với một phần sáu GDP bình quân đầu
người của Trung Quốc. Những khoảng cách đáng kể này giải thích lý do vì sao
dòng khách du lịch quốc tế hoặc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài về cơ bản thuộc
về Trung Quốc (không bao gồm hiệu ứng Covid-19).
Nhưng
bức tranh sẽ thay đổi nếu lập luận theo sức mua tương đương (PPP – Purchasing
Power Parity), có tính đến giá cả nội địa, thì sức mua ở Ấn Độ hoặc Indonesia
thấp hơn rất nhiều so với PPP ở Trung Quốc.
Nguồn: Ngân hàng Thế giới
GDP trên đầu người tính theo PPP của Trung Quốc
chỉ qua mặt Indonesia vào năm 2009, và khoảng cách biệt với Ấn Độ, vào năm
2021, không còn là một phần sáu mà là đã giảm xuống dưới mức một phần ba. Do
đó, giới trung lưu đang trở nên đông đảo hơn ở ba nước, một nhân tố phát triển
then chốt, bởi vì nó thúc đẩy sự đa dạng hóa các các ngành dịch vụ, cũng như sự
tiến bộ trong lãnh vực giáo dục và an sinh xã hội. Một nghiên cứu gần đây của
Trung tâm Nghiên cứu PEW đã phân tích sự phân bổ dân số của các nước châu Á
theo các nhóm thu nhập theo PPP và theo US$ trên đầu người.
Nguồn: Trung tâm nghiên cứu PEW
Giới
trung lưu có mức “thu nhập thấp” (tức là thu nhập ngày từ 2 đến 10 US$) chiếm tỷ
lệ rất cao ở Ấn Độ và ở Indonesia. Tỷ lệ giới trung lưu có mức “thu nhập trung
bình” (từ 10 đến 50 US$/ngày) chiếm hơn một nửa dân số Trung Quốc một chút và
chiếm gần 17% dân số Indonesia, trong khi tỷ lệ này vẫn còn thấp ở Ấn Độ. Con
đường dẫn đến sự giàu có cá nhân vẫn còn dài đối với người Ấn Độ và người
Indonesia, nhưng nền tảng đầu tiên của giới trung lưu đang phát triển, góp phần
đa dạng hóa hai nền kinh tế này và thu hút các nhà đầu tư quốc tế.
ĐÔ THỊ
HÓA: TÍNH NĂNG ĐỘNG KHÔNG CÒN THUỘC VỀ TRUNG QUỐC
Trung
Quốc đã có một tốc độ đô thị hóa rất cao trong bốn mươi năm qua, đây là một
thành tố quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Năm
2021, dân số đô thị Trung Quốc chiếm 63% tổng dân số, so với 57% của Indonesia
và 35% của Ấn Độ. Nhưng động thái này đang thay đổi. Từ nay, tốc độ
tăng trưởng dân số đô thị của Trung Quốc đang chậm lại, so với hai nước
khổng lồ châu Á kia.
Các
chuyên gia của Liên Hợp Quốc ước tính mức tăng trưởng dân số đô thị ở
Trung Quốc sẽ giảm xuống dưới 1% mỗi năm từ nay đến năm 2030. Tốc độ
tăng trưởng dân số đô thị ở Indonesia cũng sẽ chậm lại, nhưng tốc độ
tăng trưởng dân số đô thị ở Ấn Độ vẫn có thể tiếp diễn trong nhiều thập
kỷ. Cuộc khủng hoảng nhà đất hiện nay ở Trung Quốc dự kiến sẽ đẩy nhanh các xu
hướng tăng trưởng kinh tế trước đây, và động cơ đô thị hóa sẽ chỉ hỗ trợ một
chút cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.
NHÂN KHẨU
HỌC: SỰ KHỞI ĐẦU CỦA NGOẠI LỆ TRUNG QUỐC
Quá
trình chuyển đổi nhân khẩu học – tức là thời điểm mà tốc độ tăng trưởng dân số
của một nước chậm lại – đang diễn ra trên toàn bộ lục địa Châu Á. Nhưng sự chuyển
đổi này sẽ không diễn ra với cùng tốc độ hoặc cùng mức độ ở nhiều nước khác nhau.
Trung Quốc là một ngoại lệ về tốc độ chuyển đổi, theo đó đường cong nhân khẩu học
sẽ bị đảo ngược, trong khi Ấn Độ và Indonesia lại có một động năng tăng trưởng
nhân khẩu học, đang chậm lại dần, để đạt được một mức ổn định dân số khả dĩ
trong nhiều thập kỷ. Vì thế, “nhân tố lao động”, theo cách nói của các nhà kinh
tế học, sẽ tiếp tục mở rộng về mặt định lượng ở Ấn Độ và Indonesia, trong khi sẽ
thu hẹp lại, điều đang diễn ra, ở Trung Quốc.
Trong
số các chỉ báo thay đổi này, có tỷ trọng sinh sản (số trẻ con trên
một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ), quy mô của dân số trong độ tuổi lao động (những
người trong độ tuổi 15-64, theo thống kê của Liên Hợp Quốc) và tỷ lệ người trên
65 tuổi.
Trung
Quốc đã bắt đầu từ mức cao nhất vào năm 1950, với tỷ trọng sinh sản vượt
trội là 6,1 trẻ con trên một phụ nữ. Sau đó, tỷ trọng này đã trải qua ba lần tụt
giảm: lần tụt giảm quan trọng nhất diễn ra dưới kỷ nguyên của Mao, với tỷ trọng
sinh sản giảm xuống còn 2,5 vào năm 1980, tiếp theo là lần tụt giảm thứ hai với
chính sách một con, vốn làm giảm tỷ trọng sinh sản xuống còn 1,8 vào năm 1990,
và lần tụt giảm thứ ba, vào năm 2021, khiến tỷ trọng sinh sản giảm xuống
còn 1,2, thấp hơn cả Nhật Bản (1,36).
Tỷ
trọng sinh sản của phụ nữ ở Ấn Độ và Indonesia đã giảm dần và ở mức đều
đặn hơn. Ngày nay, tỷ trọng này vẫn cao hơn một chút so với tỷ trọng sinh sản
dân số mà các nhà nhân khẩu học đã đặt ra là 2,1.
Hậu
quả lâu dài của những thay đổi này là gì? Theo lô-gic kinh tế của “nhân tố lao
động”, cần phải xem xét tương đương với dân số trong độ tuổi lao động trong những
thập kỷ tới.
Nguồn: Triển vọng nhân khẩu học
thế giới. Liên Hiệp Quốc.
Dân số trong
độ tuổi lao động ở Trung Quốc cao hơn gấp rưỡi so với ở Ấn Độ vào năm
1990. Dân số lao động này sẽ giảm gần một phần tư từ năm 2020 đến năm
2050, để chỉ tương đương với hai phần ba dân số trong độ tuổi lao động ở Ấn Độ
vào thời điểm đó. Indonesia, giống như Ấn Độ, sẽ chứng kiến dân số trong độ tuổi
lao động tiếp tục tăng lên đến đỉnh điểm vào khoảng năm 2040-2050.
Trong
số những người không có khả năng lao động, người cao tuổi sẽ là một gánh nặng rất
lớn. Đặc biệt, đây là trường hợp của Trung Quốc, nơi sẽ có 400 triệu người cao
tuổi vào năm 2050 (so với gần 150 triệu người dưới 15 tuổi), tương đương với
30% dân số Trung Quốc. Tỷ lệ người cao tuổi ở Ấn Độ và ở Indonesia sẽ tăng mạnh,
nhưng không vượt quá 15% dân số của họ. Hậu quả từ những thay đổi nhân khẩu học
này về mặt chi phí chăm sóc y tế và chính sách hưu trí là nghiêm trọng đối với Ấn
Độ và Indonesia, và là rất nghiêm trọng đối với Trung Quốc.
TIẾT KIỆM
VÀ ĐẦU TƯ: TRUNG QUỐC VÔ ĐỐI
Sau
“nhân tố lao động”, cần phải xem xét đến “nhân tố tư bản”, tức là khả năng tiết
kiệm và đầu tư của một nền kinh tế. Các nước có thu nhập cao có tỷ trọng đầu tư
nằm trong khoảng từ 20 đến 25% GDP (23,5% đối với Pháp vào năm 2021). Các nhà
kinh tế học về phát triển cho rằng một tỷ trọng đầu tư trên GDP cao hơn mức 30%
là điều cần thiết để đảm bảo khả năng bắt kịp của các nước mới nổi.
Về
tiêu chí này, Trung Quốc đã và tiếp tục dẫn đầu. Tỷ trọng đầu tư của Trung Quốc
đạt gần một nửa GDP vào cuối những năm 2000. Tỷ trọng này đã giảm xuống còn 43%
vào năm 2021, nhưng đây vẫn là một tỷ trọng rất cao (cao hơn gấp đôi so với Hoa
Kỳ). Tỷ trọng đầu tư ở Ấn Độ và Indonesia đã tăng mạnh từ năm 2000 đến năm
2012. Sau đó, tỷ trọng đầu tư này đã ổn định ở mức khoảng 30-31% ở Indonesia,
trong khi tỷ trọng đầu tư ở Ấn Độ đã giảm trở lại xuống khoảng 32% sau khi đạt
đỉnh điểm 38% vào năm 2012, đây là một trong những lý do giải thích cho tốc độ
tăng trưởng chậm lại của Ấn Độ trong thập kỷ 2010.
Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Nguồn
đầu tư này phần lớn được tài trợ từ tiết kiệm trong nước ở Trung Quốc, và tỷ trọng
tiết kiệm của nước này luôn cao hơn tỷ trọng đầu tư, với những tỷ lệ rất lớn
trong suốt thập kỷ 2000, và hiện nay ở mức độ thấp hơn (từ 1 đến 2 điểm % GDP).
Đây không phải là trường hợp của Ấn Độ và Indonesia, mà về mặt cấu trúc có tỷ
trọng tiết kiệm thấp hơn tỷ trọng đầu tư, điều này được biểu hiện qua mức thâm
hụt thường xuyên của cán cân thanh toán quốc tế ở cả Ấn Độ lẫn Indonesia (ngoại
trừ năm nay, đối với Indonesia). Mức thâm hụt này là một yếu tố cho thấy tính bấp
bênh trong thời kỳ căng thẳng về dòng vốn đầu tư quốc tế, và hai nước này cần
phải kích thích tiết kiệm trong nước để củng cố khả năng đầu tư của họ.
Họ
cũng cần phải thu hút tiết kiệm thế giới, thông qua các khoản đầu tư trực tiếp
của nước ngoài vào nước mình. Tin tốt cho Ấn Độ và Indonesia là họ đang đạt được
mục tiêu đó theo hướng tăng dần. Đầu tư nước ngoài đã trở nên quan trọng đối với
hai nước này hơn, so với Trung Quốc.
Nguồn: Ngân hàng Thế giới
NĂNG SUẤT:
TRUNG QUỐC ĐANG YẾU
Tăng
trưởng, nói theo nghĩa cổ điển, được coi là kết quả của đầu vào lao động và tư
bản, cộng với năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP – Total factor Productivity),
được tính bằng mức chênh lệch giữa tăng trưởng cụ thể và tăng trưởng phát sinh
từ mức tăng đơn thuần đầu vào về lao động và tư bản. Năng suất TFP được cho là phản
ánh sự cải thiện về chất của một nền kinh tế, năng lực sáng tạo đổi mới, sự định
vị trong các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao nhất. Đó là nguồn cảm hứng trong
sự tăng trưởng kinh tế.
Năng
suất TFP của Trung Quốc ở mức rất cao trong “ba mươi năm vinh quang” của đất nước,
khoảng 3 đến 3,5 điểm % GDP, cộng với tỷ trọng đầu tư ngoại lệ và sự gia tăng
dân số trong độ tuổi lao động, để đạt được mức tăng trưởng 10% trong giai đoạn
đó. Năng suất TFP đó đã giảm khá mạnh 0,7 điểm % từ năm 2010 đến năm 2019, trong
giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế dịch vụ và gánh nặng của ngành xây dựng
đã khiến năng suất tổng thể giảm.
Ấn Độ
đã có thể duy trì một năng suất TFP cao hơn đáng kể so với Trung Quốc và thậm
chí cao hơn mức trung bình của các nước mới nổi trong thập kỷ 2010-2019, với mức
trung bình hàng năm là 2,2 điểm %, theo báo cáo của Ngân hàng Trung ương Ấn Độ. Đại dịch đã
làm xáo trộn hoàn toàn chỉ báo này (với mức giảm 2,9 điểm % GDP vào năm 2020,
và với một mức gần như đình trệ vào năm 2021) nhưng xu hướng của năm 2022 là
phù hợp với xu hướng của thập kỷ trước
.
Indonesia
thì ở vị trí trung bình, với năng suất TFP chiếm trung bình 1 điểm % GDP trong
thập kỷ qua, tức là vào khoảng 20% mức tăng trưởng kinh tế của đất nước này.
CÔNG NGHIỆP
CHẾ TẠO: ẤN ĐỘ VẪN CHẬM BƯỚC
Ngay
từ năm 2010, Trung Quốc đã vượt Hoa Kỳ, để trở thành cường quốc công nghiệp
hàng đầu thế giới. Nhưng vị trí hàng đầu này của ngành công nghiệp Trung Quốc
đã suy yếu trong thập kỷ qua, và khoảng cách với mức trung bình của các nước mới
nổi đã bị thu hẹp. Ngược lại, Ấn Độ vẫn là nền kinh tế sản xuất công nghiệp rất
nhỏ, bất chấp tham vọng “sản xuất tại Ấn Độ” của Narendra Modi, còn Indonesia
thì vẫn ở vị trí trung bình.
ĐỔI MỚI:
KHOẢNG CÁCH ĐANG TĂNG VỚI LỢI THẾ CHO TRUNG QUỐC
Sáng
tạo đổi mới là lĩnh vực mà Trung Quốc không ngừng tăng trưởng. Hai nước lớn châu
Á kia sẽ phải thực sự cần có một cú hích trong lĩnh vực này, để không phải rơi
vào “bẫy thu nhập trung bình” vào một ngày nào đó. Tiêu chí đầu tiên về sáng tạo
đổi mới liên quan đến tỷ lệ các nguồn lực dành cho nghiên cứu và phát triển.
Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Trung
Quốc đã kiên trì theo đuổi nỗ lực nghiên cứu và phát triển trong bảy mươi năm
qua, với một tốc độ tăng trưởng ổn định, vốn không bị đặt lại vấn đề trong thời
kỳ chuyển tiếp từ kỷ nguyên Mao Trạch Đông sang kỷ nguyên Đặng Tiểu Bình, rồi đến
kỷ nguyên Tập Cận Bình. Từ nay, R&D của Trung Quốc ở mức ngang với các nước
thuộc OECD, thậm chí với tầm nhắm đạt được mức còn cao hơn mức của Nhật Bản và
Hàn Quốc.
Tình
hình của Ấn Độ lại hoàn toàn khác, với một nỗ lực nghiên cứu và phát triển khá
quan trọng vào đầu thế kỷ này, nhưng đã bị đình trệ, thậm chí giảm sút dần từ
hai mươi năm nay về mặt tỉ trọng. Tình hình của Indonesia thì đáng lo ngại. Nỗ
lực nghiên cứu và phát triển của nước này là không đáng kể và chỉ giới hạn
trong lĩnh vực quốc phòng cho đến năm 2015. Tình hình đã tiến bộ hơn một chút kể
từ đó, nhưng vẫn còn rất thấp đối với một nước có trình độ phát triển như
Indonesia, trong khi ở Đông Nam Á, những nước như Malaysia hay Thái Lan hiện
dành hơn 1% GDP cho nghiên cứu và phát triển.
Danh
tiếng các trường đại học ở ba nước này phản ánh sự khác biệt trong nỗ lực
nghiên cứu và phát triển. Bảng xếp hạng năm 2022 của tạp chí Times
Higher Education liệt kê 24 trường đại học Trung Quốc nằm trong top
500 thế giới, 4 trường của Ấn Độ, còn Indonesia thì không có trường nào (trường
đại học Indonesia duy nhất được xếp hạng trong top 1000 trường hàng đầu thế giới
là Đại học Indonesia).
Hàng
năm, Văn phòng Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) công bố “Chỉ số Sáng tạo Đổi mới
Toàn cầu”, trong đó thống kê một loạt những thành tố cấu thành năng lực sáng tạo
đổi mới của một nước (các định chế, nhân lực về giáo dục và nghiên cứu, cơ sở hạ
tầng thông tin và truyền thông, mức độ phức tạp của thị trường, sự sáng tạo và
phổ biến tri thức, v.v.). Năm 2022, Trung Quốc đứng ở vị trí thứ mười một trong
bảng xếp hạng này (đứng ngay trên Pháp), Ấn Độ ở vị trí thứ bốn mươi, và
Indonesia ở vị trí thứ bảy mươi lăm, đứng sau nhiều nước láng giềng thuộc khối
Asean (như Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, Philippines).
Bất
luận tiêu chí phân tích được sử dụng là gì, những khác biệt giữa ba nước là rất
rõ rệt với lợi thế thuộc về Trung Quốc, nước duy nhất ngày nay có khả năng phát
triển một “nền kinh tế tri thức” thực sự.
MỞ CỬA QUỐC
TẾ: TRUNG QUỐC TRỞ LẠI HÀNG NGŨ CŨ
Trung
Quốc được biết đến là công xưởng của thế giới và là nước xuất khẩu hàng đầu thế
giới. Thế mà, tỷ trọng xuất khẩu trong nền kinh tế Trung Quốc đã giảm mạnh kể từ
một thập kỷ qua, trong khi Ấn Độ và Indonesia đang duy trì được tỷ trọng xuất
khẩu hoặc tăng dần. Đến mức tỷ trọng xuất khẩu của hai nước này ngày nay ngày
càng quan trọng đã tăng nhiều hơn.
Chiến
lược “lưu thông kép” được Tập Cận Bình chủ trương ở Trung Quốc đã ưu tiên cho sự
phát triển thị trường trong nước, để hỗ trợ cho sự tăng trưởng kinh tế của đất
nước, trong khi các nhà đầu tư phương Tây đang bắt đầu đa dạng hóa các cơ sở sản
xuất ở châu Á gây bất lợi cho Trung Quốc. Vì thế, các xu hướng hiện tại có khả
năng được xác thực trong trung hạn. Trung Quốc không còn là ngoại lệ khi nói đến
xuất khẩu, và ngọn cờ đầu ở châu Á đang bị Việt Nam lấy lại một cách mạnh mẽ,
nước có tỷ trọng xuất khẩu chiếm hơn 100% GDP vào năm 2021.
Chín
chỉ số nói trên còn lâu mới làm cạn kiệt lĩnh vực so sánh giữa ba nước khổng lồ
của một châu Á đang phát triển – cần phải xem xét đến các nhân tố của nền kinh
tế kỹ thuật số, nhưng chưa có chỉ báo tổng hợp nào cho phép ghi nhận điều đó.
Tuy nhiên, các chỉ báo này là đủ để dựng lên một bức tranh nhiều sắc thái về những
điểm mạnh và điểm yếu tương ứng. Trung Quốc vẫn là một đối thủ cạnh tranh đáng
gờm về sức mạnh công nghiệp, năng lực sáng tạo đổi mới và tiết kiệm, nhưng họ sẽ
phải trả giá bằng một sự suy giảm nhanh về nhân khẩu học và một quá trình đô thị
hóa đã trở nên ì ạch. Sự mở cửa quốc tế và năng suất của Trung Quốc đang suy yếu,
tiến gần đến thời điểm không còn đảm bảo việc đuổi kịp về kinh tế. Hai nước khổng
lồ châu Á kia, từ nay, đang có nhiều triển vọng hứa hẹn hơn, với điều kiện là sự
phát triển kinh tế của họ phải trở nên bền vững hơn về mặt xã hội cũng như về mặt
môi trường.
Giới thiệu
tác giả
Hubert
Testard là chuyên gia về châu Á và các vấn đề kinh tế quốc tế. Ông từng là cố vấn
kinh tế và tài chính trong 20 năm cho các đại sứ quán Pháp tại Nhật Bản, Trung
Quốc, Hàn Quốc và Singapore cho ASEAN. Ông cũng đã tham gia soạn thảo các chính
sách của châu Âu và đặc biệt là chính sách thương mại, cho dù đó là WTO hay các
cuộc đàm phán với các nước châu Á. Ông đang giảng dạy từ tám năm nay tại Trường
Cao đẳng về các vấn đề quốc tế thuộc Học viện chính trị [Sciences Po] về phân
tích tương lai của châu Á. Ông là tác giả cuốn sách có tựa là “Pandémie, le basculement
du monde [Đại dịch, sự chuyển hướng của thế giới]”, được Éditions de
l’Aube xuất bản vào tháng 3 năm 2021, và ông đã viết bài cho số báo tháng 12
năm 2022 của tạp chí tam cá nguyệt “Revue économique et financière”, chuyên về
các hậu quả kinh tế và tài chính của cuộc chiến ở Ukraine.
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
Nguồn:
Développement: la Chine ne
fait plus la course en tête face à l’Inde et l’Indonésie, Asialyst, ngày
23/12/2022.
No comments:
Post a Comment