Nghiên
cứu để ngăn chặn đại dịch lại có thể khơi mào một đại dịch khác, phải làm sao?
25/03/2023
Điều gì sẽ
biến cúm gia cầm - vốn đã giết chết hàng triệu con chim và hàng trăm người trên
khắp thế giới - trở thành đại dịch chết người tiếp theo?
Các nhà khoa học muốn biết để họ có thể đi trước.
Đó là lý do tại sao vào năm 2010, hai nhóm nghiên cứu điều nghiên một loại
virus cúm gia cầm đã giết chết khoảng một nửa số người nhiễm bệnh nhưng không dễ
dàng lây lan từ người sang người. Các nhà nghiên cứu cho chồn sương nhiễm virus
này để xem điều gì sẽ làm cho nó dễ lây truyền hơn. Phổi và đường hô hấp của chồn
sương rất giống chúng ta.
https://gdb.voanews.com/FCC7AEF9-2F53-40DD-87F2-D77BE1740099_w1023_r1_s.png
Các nhà
nghiên cứu cho chồn sương nhiễm virus gia cầm để xem điều gì sẽ làm cho nó dễ lây
truyền hơn.
Nhà vi sinh học Michael Imperiale của Đại học
Michigan nói: “Họ làm một con chồn nhiễm virus, đợi một khoảng thời gian nhất định,
lấy virus từ con chồn đó và lây nhiễm cho con chồn tiếp theo”.
Sau 10 vòng, virus đã đột biến thành một dạng
nguy hiểm hơn nhiều. “Họ không cần phải truyền virus từ con chồn này sang con
chồn khác,” ông nói. “Nếu họ cho các con chồn ấy ở gần nhau, chúng có thể truyền
cho nhau.”
Virus đó có khả năng gây đại dịch.
Các nhà khoa học đã hình dung được những phần
nào của virus đã biến đổi để khiến nó lây lan dễ dàng hơn. Họ nói rằng điều đó
có thể giúp các chuyên gia tìm ra loại virus nguy hiểm tiếp theo và có thể giúp
phát triển các loại thuốc và vắc-xin.
Mặt khác, các nhà nghiên cứu vừa tạo ra một mối
đe dọa dịch bệnh mới, dễ lây lan và chết người. Nếu nó thoát ra khỏi phòng thí
nghiệm bằng cách nào đó, nó có thể gây ra đại dịch toàn cầu.
Rò rỉ phòng thí nghiệm rất hiếm nhưng chúng vẫn
xảy ra. SARS đã thoát khỏi các phòng thí nghiệm ở Singapore, Đài Loan và Trung
Quốc vào đầu những năm 2000. Một tai nạn trong phòng thí nghiệm ở Anh đã dẫn đến
bùng phát dịch lở mồm long móng ở gia súc.
Nhà dịch tễ học Marc Lipsitch của Đại học
Harvard nói: “Điều đó chỉ cho thấy rằng ngay cả những phòng thí nghiệm tốt nhất
trên thế giới cũng không được bảo vệ hoàn toàn khỏi các tai nạn”. “Con người có
thể sai lầm.”
Theo nhà vi sinh học Richard Ebright của Đại học
Rutgers, các thí nghiệm cúm gia cầm đã gióng lên hồi chuông cảnh báo khi các
nhà nghiên cứu công bố kết quả của họ vào năm 2011.
“Tôi nghĩ mọi người khi nghe kết quả đều ngạc
nhiên, thứ nhất, rằng bất kỳ ai cũng có thể bị thách thức về mặt đạo đức khi tiến
hành một thí nghiệm như vậy; và thứ hai, ngạc nhiên rằng không có bất kỳ cơ chế
giám sát nào có thể ngăn cản một nhà nghiên cứu tiến hành một thí nghiệm như vậy,”
ông nói.
Không phải ai cũng nghĩ rằng các thí nghiệm về
cơ bản là một ý tưởng tồi. Nhưng họ đã khởi động một nỗ lực để giám sát nhiều
hơn.
Theo nhà vi sinh học Imperiale của Đại học
Michigan, loại nghiên cứu đó đáng giá trong hai điều kiện.
“Có phải nó đang giải quyết một vấn đề y sinh
cấp bách, [mà] chúng ta phải có câu trả lời? Đấy có thực sự là cách duy nhất hoặc
cách tốt nhất để giải quyết vấn đề đó mà các phương pháp khác sẽ không đưa bạn
đến câu trả lời mà bạn cần không? Và nếu câu trả lời cho hai câu hỏi đó là có,
sau đó hãy tìm ra cách để làm điều đó một cách an toàn,” ông nói.
Nhà chức trách y tế Hoa Kỳ thiết lập một khuôn
khổ để đặt ra những câu hỏi đó và quyết định nghiên cứu nào sẽ nhận được tài trợ.
Tuy nhiên, ông Ebright nói, “khuôn khổ đó có vẻ
đúng trên giấy tờ nhưng nó chưa thực sự xảy ra trong thực tế.”
Ông nói rằng một số dự án nghiên cứu lẽ ra phải
được xem xét kỹ lưỡng hơn thì không, bao gồm cả nghiên cứu do Hoa Kỳ tài trợ ở
Vũ Hán, Trung Quốc, về điều gì sẽ khiến virus corona dễ lây nhiễm hơn cho con
người. Ông Ebright cho rằng cuộc nghiên cứu đó có thể là nguồn gốc của virus
COVID-19.
COVID-19 đến từ đâu đang được tranh luận gay gắt.
Nhưng đại dịch virus corona đã thu hút nhiều nghiên cứu về vi trùng có khả năng
gây đại dịch.
Ông Lipsitch nói: “Điều đó nhắc nhở chúng ta rằng
đây không phải là chuyện giỡn. Nó không nhất thiết phải là một loại virus gây
chết người 50% mới có thể gây ra sự gián đoạn xã hội toàn cầu và rất nhiều thiệt
hại và chúng ta cần phải thực sự cẩn thận”.
“Tôi nghĩ rằng nó đã thúc đẩy một số suy nghĩ
thận trọng hơn về giám sát nhưng thực sự giám sát vẫn chưa được thực hiện,” ông
nói thêm.
Một hội đồng cố vấn của Hoa Kỳ đã khuyến nghị
các cách thức để thắt chặt các hướng dẫn. Các chuyên gia nói rằng họ đã bước đi
đúng hướng nhưng vẫn còn sơ hở. Một số người cho rằng nên làm thành luật thay
vì là đưa ra những hướng dẫn.
Mặt khác, ông Lipsitch lưu ý, “có nguy cơ thực
sự là Quốc hội sẽ phản ứng thái quá và hạn chế quá mức các nghiên cứu hết sức
có giá trị và hoàn toàn an toàn nhằm hạn chế nghiên cứu ít giá trị hơn và nguy
hiểm hơn.”
Ngoài ra, các quy tắc sẽ chỉ áp dụng cho
nghiên cứu do Hoa Kỳ tài trợ. Các quốc gia khác cũng cần phải làm như vậy, ông
Imperiale nói.
Ông nói: “Nếu đây không phải là một dạng đồng
thuận quốc tế nào đó, thì chúng ta sẽ không đạt được những gì chúng ta thực sự
muốn đạt được ở đây, đó là giữ cho thế giới được an toàn.” “Bởi vì, như chúng
ta đều biết, các tác nhân truyền nhiễm không tôn trọng các biên giới quốc gia.”
No comments:
Post a Comment