Vì
sao Phật giáo Việt Nam có xu hướng ngày càng mê tín?
Văn Tâm
- Luật Khoa
10/02/2023
https://baotiengdan.com/2023/02/10/vi-sao-phat-giao-viet-nam-co-xu-huong-ngay-cang-me-tin/
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2023/02/2-2.jpeg
Người dân nhét tiền vào tay tượng Phật ở Chùa
Lim, Bắc Ninh. Ảnh: Tuấn Mark/ Zing News.
Cuốn theo vòng xoáy ràng buộc lợi ích
Ngày nay, đa số người đi chùa để cầu xin Phật
ban cho tiền bạc, đậu một kỳ thi, khỏi bệnh tật hay thăng tiến được một chức vụ
nào đó. Người ta còn cúng những số tiền rất lớn mong Phật ưu tiên cho ước mong
của mình.
Năm 2021, Hòa thượng Thích Gia Quang, Phó Chủ
tịch Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, vẫn lên tiếng khẳng định: “Giáo hội hướng dẫn tín đồ, phật tử sinh hoạt
theo đúng chính pháp.” [1]
Trong khi đó, vào năm 2008, Hòa thượng Thích
Tuệ Sỹ, hiện là người lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, lại cho rằng: “Nói về gia tài Phật giáo Việt Nam, tôi nói
đó là một cơ đồ đã mục có thể sập […] người ta coi ông Phật cũng như ông Địa.
Nghĩa là thờ Phật để cầu buôn may bán đắt, cầu cho đừng bệnh tật, cho trúng số
đề.” [2]
Đạo Phật cho rằng việc cầu xin để đạt quyền lực
hay tiền tài là một thực hành mê tín, đi ngược lại với giáo lý nhà Phật. Tuy
nhiên, vì sao việc thực hành Phật giáo tại Việt Nam lại ngày càng có xu hướng
mê tín?
Cuộc đổi đời của các nhà sư
Sau năm 1975, các hoạt động tôn giáo ở Việt
Nam gần như bị hạn chế tuyệt đối. Chính quyền đóng cửa các ngôi chùa, hoặc cho
phép mở cửa vài ngày trong tháng dưới sự giám sát rất nghiêm ngặt.
Thậm chí, đến năm 1981, khi Giáo hội Phật giáo
Việt Nam, nơi tập hợp những nhà sư chấp nhận sự kiểm soát của chính quyền về
tôn giáo, được thành lập thì đạo Phật vẫn còn rất khó khăn.
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã kể rằng trong những năm 1980, chùa của ông có lúc
không còn gạo để ăn: “Có đêm, ông thầy quản lý lên kêu, mình hết gạo rồi thầy
ơi! Tôi làm sao kiếm được gạo đây? Tôi cũng chả biết […] Rồi sau đó thầy trụ
trì tức thầy Đức Chơn cũng phải đi cúng […] Rồi có hôm mấy thầy lên thưa, thầy
trụ trì tối nay không thấy về, chả ai biết ra sao. Sáng ra thấy về, hỏi thầy đi
đâu vậy? Nói, thì vô “sở” ngồi vì hành nghề trái phép.” [3]
Đến năm 2007, thiền sư Thích Nhất Hạnh sau khi
về nước đã nhận
định rằng một số nhà sư của Giáo hội Phật giáo Việt Nam được xem như những
người đang làm ăn, “như đang có một cái nghề”, không còn là đại diện cho nền đạo
đức ngày xưa nữa. [4]
Và “những người làm ăn” ấy ngày nay đã được
công chúng công nhận là những người ăn nên làm ra với những ngôi chùa không
khác gì các công ty kinh doanh. Chuyện gì đã xảy ra trong thập niên 1990 làm
thay đổi cuộc đời của các nhà sư?
Tín ngưỡng dân gian trỗi dậy
Trong thập niên 1980, xã hội Việt Nam đã bị xô
dạt mạnh nhất với hàng loạt các biến chuyển ở quy mô lớn. Nền kinh tế bao cấp
thất bại đã vùi người dân xuống bùn lầy của nghèo đói. Sự cấm cản giao tiếp với
thế giới tư bản đã làm đất nước đi thụt lùi. Hàng trăm nghìn người đã tìm cách
vượt biên, rất nhiều người chết mất xác ngoài biển. Niềm tin của người dân vào
tương lai bị thách thức hàng ngày.
Trong bối cảnh mong manh như vậy, người
dân phó thác số phận của mình vào các đấng tâm linh siêu
nhiên, nổi bật nhất là các đền thờ dân gian như Bà Chúa Xứ, Bà Đen, Bà Thiên Hậu,
các vị thần linh trong thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ (Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn,
v.v.). [5]
Năm 1982, một cán bộ Ban Dân vận Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh, đã lên
án hàng loạt hình thức tâm linh trên báo Giác Ngộ: “[…] Hoạt động của
hội ‘Bà Chúa xứ Nương Nương’ sử dụng kiểu đồng bóng cải tiến. Hồn con vật nào
nhập vào ai, người ấy phải cử động như con vật đó. Hội ‘Đền thánh Phủ Giày’ vẫn
giữ cách sinh hoạt bốc bát nhang và chữa bịnh bằng tàn nhang, nước thải. Khi
các cuộc tổ chức vượt biên xuất hiện thì việc bói toán đều có những gợi ý chỉ
có vượt biên mới làm ăn phát tài […]”. [6]
Đến khi Việt Nam chính thức trở lại nền kinh tế
thị trường thì các hoạt động tâm linh còn sôi nổi hơn nữa. Người dân “làm ăn”
trong tâm thế bất an khi luật pháp chưa phát triển, các thiết chế kinh tế tư bản
chưa vững chắc, thì việc dựa dẫm vào thần linh là điều dễ hiểu. Từ Bắc vào Nam,
những chuyến hành hương đến các đền thờ tín ngưỡng dân gian để “giao dịch” với
các thần linh bùng nổ, không thể nào ngăn cản.
Năm 1990, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam
đã ra Nghị quyết 24 về công tác tôn giáo, xác định: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều
điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới.” [7]
Đến lúc này, chính quyền bắt đầu chấp nhận các
hoạt động tâm linh mà họ từng lên án. Những hoạt động tâm linh này được cho là
mang đến một khí thế mới cho đất nước, tạo ra sự đoàn kết dân tộc trước các mối
lo sợ khi mở cửa với thế giới, thúc đẩy sự gắn bó đối với quê hương, thu hút
người Việt ở nước ngoài trở về Việt Nam. Từ đây, tín ngưỡng dân gian từng được
coi là mê tín dị đoan trong một thời gian dài bỗng trở thành “bản sắc dân tộc”.
Các cơ sở tín ngưỡng bắt đầu được chính quyền trực tiếp quản lý, khai thác
phục vụ nhiều mục đích cả về kinh tế, văn hóa và chính trị. [8]
Có thể nói rằng những tín ngưỡng tâm linh dân
gian được cho là mê tín, thiếu hiểu biết ấy đã đưa người dân đi qua một giai đoạn
khó khăn của lịch sử. Tuy nhiên, trong thị trường tâm linh sôi động thời mở cửa,
Phật giáo vẫn còn giữ được truyền thống tu học, hướng dẫn người dân thực hành
giáo lý, chưa tổ chức các lễ hội Phật giáo đầy màu sắc như hiện nay. [9]
Phật giáo thành công cụ chính trị
Năm 2003, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục
ra Nghị quyết 25 về công tác tôn giáo, trong đó có một số
chủ trương đáng chú ý như chống các “tà đạo”, còn gọi là các tôn giáo mới, xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đối ngoại bằng tôn giáo nhằm phản bác những chỉ
trích của thế giới về tự do tôn giáo tại Việt Nam. [10]
Vào lúc này, Việt Nam đang cần chứng tỏ với thế
giới về tình hình tự do tôn giáo. Phật giáo có thể là một lựa chọn hợp lý cho
các mục tiêu vừa nêu.
Phật giáo vốn là tôn giáo có bề dày lịch sử ở
Việt Nam nên rất dễ thu hút quần chúng. Giáo hội Phật giáo Việt Nam còn là
thành viên của Mặt trận Tổ quốc, không bị ảnh hưởng từ các yếu tố nước ngoài,
như Công giáo hay Tin Lành, nên chính quyền sẽ rất dễ điều khiển.
Mặt khác, dù các lễ hội tín ngưỡng dân gian
đang rất phát triển, nhưng các lễ hội này thường tổ chức manh mún, không có một
cơ quan quản lý chung, không có chức sắc chuyên nghiệp, dễ sa đà vào tình trạng
mê tín dị đoan nặng nề, dễ nảy sinh ra các tôn giáo mới tạo gánh nặng cho việc
quản lý của chính quyền.
Do vậy, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, một tổ chức
được quản lý tập trung và các nhà sư lãnh đạo giáo hội do chính quyền lựa chọn,
trở thành một giải pháp hoàn hảo. Nhiệm vụ của Phật giáo vì thế mang tính chính
trị rõ rệt, đó là cần phải thu hút đông đảo quần chúng để chứng tỏ tình hình tự
do tôn giáo tại Việt Nam có dấu hiệu khởi sắc, thông qua đó tuyên truyền chính
sách của nhà nước về việc tuân thủ pháp luật, bảo vệ chế độ, góp phần xây dựng
khối đoàn kết dân tộc có lợi cho chính quyền.
Tuy nhiên, giáo lý của Phật giáo rất đồ sộ, phức
tạp, một người muốn thực hành tốt đạo Phật cần phải bỏ thời gian và công sức
đáng kể. Trong khi đó, nhiệm vụ chính trị vừa nêu đòi hỏi phải thực hiện nhanh
chóng, ở một quy mô rộng lớn. Do vậy, một trong những giải pháp để dung hòa các
mục tiêu khác nhau là Phật giáo được định hướng “nhập thế” theo con đường gắn
chặt với các tín ngưỡng dân gian. Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã chủ trương tổ
chức các lễ hội không phải là truyền thống của đạo Phật, không lên án hoặc gián
tiếp thúc đẩy việc người dân cầu xin tiền tài, quyền lực nhằm cạnh tranh với
các tín ngưỡng dân gian, và khiến người dân ngày càng lệ thuộc vào Phật giáo.
Ràng buộc trong vòng xoáy lợi ích
Từ những năm 2000, những dự án du lịch tâm
linh Phật giáo đồ sộ bắt đầu được xây dựng tại Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Bà Nà (Đà Nẵng),
Bái Đính (Ninh Bình), v.v. Cho đến nay, hàng loạt các công trình tâm linh khổng
lồ xuất hiện nhan nhản ở khắp các tỉnh, thành.
Việc người dân càng lệ thuộc vào Phật giáo đã
giúp chính quyền ổn định chính trị, ngược lại, chính quyền cho giáo hội thêm
không gian hoạt động nhưng ràng buộc trong một vòng xoáy lợi ích. Giáo hội Phật
giáo Việt Nam nhiều năm trở lại đây đã công khai nhận lãnh sứ mệnh xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc qua các khẩu hiệu như “tốt đời đẹp đạo”, “đạo pháp – dân tộc
– chủ nghĩa xã hội”, “ích đạo, lợi đời”, v.v.
Trong văn kiện Đại hội Phật giáo Khóa IX (2022 – 2027), giáo
hội còn định hướng rằng tăng ni, Phật tử sẽ “nâng cao hiệu quả phối hợp” với
các đoàn thể xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan nhà nước. Ngoài ra, việc
thực hiện liên kết, liên doanh với các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nhằm “tạo
nguồn tự chủ tài chính” cho các hoạt động Phật sự của giáo hội được đề cập
trong định hướng “lan tỏa triết lý Phật giáo trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp,
doanh nhân”. [11]
Do vậy, những ngôi chùa khổng lồ với sự hậu
thuẫn của nhà nước và dẫn dắt lợi ích từ phía doanh nghiệp đã khiến việc thực
hành Phật giáo tại Việt Nam ngày càng có xu hướng mê tín. Mặc dù về hình thức,
du lịch tâm linh mang lại nguồn lợi lớn, thay đổi bộ mặt nhiều địa phương, nhất
là các khu vực nông thôn, đồi núi, nhưng đó chỉ là tức thời, cục bộ. Lợi ích
kinh tế to lớn nhất vẫn xoay quanh mối quan hệ tay ba giữa các nhà sư, doanh
nghiệp, và chính quyền. Nó khiến nhà chùa và nhà nước ngày càng gắn bó hơn.
Rõ ràng, xu hướng mê tín trong việc thực hành
đạo Phật như hiện nay không mang lại lợi lạc cho người dân về lâu dài. Đạo Phật
đã nói rõ rằng sự tham lam vật chất chính là con đường dẫn tới đau khổ.
_____
*Chú thích:
1. Tạp chí Tuyên giáo. (2021, April 7). Giáo
hội Phật giáo Việt Nam vững vàng đường hướng dân tộc – đạo pháp – chủ nghĩa xã
hội. https://web.archive.org/web/20230203034849/https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/giao-hoi-phat-giao-viet-nam-vung-vang-duong-huong-dan-toc-dao-phap-chu-nghia-xa-hoi-132805
2. Định hướng tương lai với thế hệ
tăng sĩ trẻ. (2008, May 12). Thư Viện Hoa Sen. https://thuvienhoasen.org/a27487/dinh-huong-tuong-lai-voi-the-he-tang-si-tre-ngay-nay
3. Xem [2].
4. Khi nhà nước làm hư nhà sư.
(2022, August 20). Luật Khoa tạp chí. https://luatkhoa.com/2022/08/khi-nha-nuoc-lam-hu-nha-su/
5. Việt Nam sau 30/4/1975: “Mê tín dị
đoan” trở thành “bản sắc dân tộc” như thế nào – Kỳ 2. (2020, May 3). Luật
Khoa tạp chí. https://luatkhoa.com/2020/05/viet-nam-sau-30-4-1975-me-tin-di-doan-tro-thanh-ban-sac-dan-toc-nhu-the-nao-ky-2/
6. Việt Nam sau 30/4/1975: “Mê tín dị
đoan” trở thành “bản sắc dân tộc” như thế nào – Kỳ 1. (2020, April 26). Luật
Khoa tạp chí. https://www.luatkhoa.com/2020/04/viet-nam-sau-30-4-1975-me-tin-di-doan-tro-thanh-ban-sac-dan-toc-nhu-the-nao-ky-1/
7. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày
12/3/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công
tác tôn giáo. (2019, May 27). Báo Điện Tử Đảng Cộng Sản Việt Nam. https://web.archive.org/web/20230203035408/https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-ix/nghi-quyet-so-25-nqtw-ngay-1232003-hoi-nghi-lan-thu-bay-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-ix-ve-cong-tac-ton-giao-3474
8. Tín ngưỡng và công tác Quản lý nhà
nước về hoạt động tín ngưỡng hiện nay. (2022, May 10). Sở Nội Vụ Tỉnh Bình
Thuận. https://web.archive.org/web/20230203035851/https://snv.binhthuan.gov.vn/1316/32261/66135/616540/ban-ton-giao/tin-nguong-va-cong-tac-quan-ly-nha-nuoc-ve-hoat-dong-tin-nguong-hien-nay.aspx
9. Đằng sau dự thảo về tiền công đức:
Khi chính quyền làm “trùm” kinh doanh tâm linh. (2022, May 12). Luật Khoa tạp
chí. https://luatkhoa.com/2022/05/khi-chinh-quyen-lam-trum-kinh-doanh-tam-linh/
10. Xem [7].
11. VĂN KIỆN ĐẠI HỘI PHẬT GIÁO KHÓA
IX: CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ NHIỆM KỲ IX (2022 –
2027). (2022, November). Giáo Hội Phật Giáo Đà Nẵng. https://phatgiaodanang.vn/tin-tuc/van-kien-dai-hoi-phat-giao-khoa-ix-chuong-trinh-muc-tieu-phuong-huong-hoat-dong-phat-su-nhiem-ky-ix-2022-2027.html
No comments:
Post a Comment