NHỮNG NGƯỜI CHỐNG TRUNG QUỐC BẰNG
MÁU CỦA CHÍNH MÌNH
https://www.facebook.com/Osinhuyduc/posts/2771575866210910
Điều
gì các viện sử quốc doanh không làm, người lính sẽ tự làm lấy. Đó là ý nghĩ bất
chợt của tôi khi đọc đến trang cuối cùng tập bản thảo của một người lính có mặt
tại Cao Bằng tháng 2-1979. Hơn 180 trang viết ngồn ngộn tư liệu, đang rất thô
mộc. Vì thô mộc như những người lính nên nó quá sống động và vô cùng chân thực.
Cuốn
sách là những trang hồi ức về Trung đoàn 567, một trung đoàn trong những năm
1977, 1978, chỉ được giao khoét núi mở đường; cho tới tháng 12-1978, tức là chỉ
còn mấy chục ngày trước Chiến tranh, vẫn không được huấn luyện sẵn sàng, không
được trang bị đầy đủ vũ khí, không được bổ sung quân số… Một trung đoàn địa
phương mà đã phải đối đầu với hai sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo dàn… suốt 12
ngày đêm ở Tà Lùng, Khau Chỉa…
Có
những trang viết như những thước phim:
“Một
đám rất đông lính Tàu bu quanh cây nhãn ở ngã ba thị trấn. Một sỹ quan của ta
bị chúng buộc dây vào chân rồi treo ngược lên cành nhãn. Anh ấy bị tra tấn...
Từ xa nhìn qua ống nhòm chỉ thấy anh rũ rượi, quằn quại… Một lúc sau, anh dãy
lên vài cái rồi hy sinh. Mấy cậu trinh sát định nã vào đám lính Tàu mấy loạt AK
nhưng anh Khắc ngăn lại, tầm bắn hơi xa, vả lại nhiệm vụ chính là đi trinh sát.
Anh Khắc mắt đỏ hoe…”
Có
những trang viết làm ta lặng người đi:
“Sáng
sớm 2-3, bọn tàu tràn vào đen đặc cả cánh đồng… Hai nữ y tá của đại đội quân y
trung đoàn là Đinh Thị Tuyến và Nguyễn Thị Huệ không còn đường rút đành đưa
thương binh nặng ở lại hang Keng Riềng (Ngườm Hẩu) ẩn náu, cùng đi có cả mấy
người dân tự nguyện giúp bộ đội chăm sóc thương binh. Cả hang chỉ có một khẩu
CKC với mấy chục viên đạn…, Tuyến và Huệ đã bắn những viên đạn cuối cùng vào
đám lính Tàu tấn công lên hang. Bọn Tàu chặn cửa hang, dùng súng phun lửa, B40,
B41 bắn vào... Hang Keng Riềng cháy đen khét lẹt, những xác người bị cháy thui
co quắp, nứt toác...”
Có
những trang viết làm máu trong người ta sùng sục sôi:
“…Ngày
28-2, liên lạc trung đoàn về báo cho đội văn công ở bản Chang về xã Hoàng Hải
để rút… Đội có 15 người, 10 nữ, 5 nam, vũ khí chỉ có 1 AK và 1 CKC... Vượt quốc
lộ 3, đoạn Lũng Xỏm chừng một cây số thì cả đội đụng ổ phục kích, hơn trăm tên.
Anh Kiền và Minh Lý nổ súng chặn giặc và hô anh chị em chạy lên núi. Chỉ có ba
người chạy thoát... Bọn Tàu quây bắt được mười người, chúng đâm chết ba chiến
sỹ nam ngay, bảy chiến sỹ nữ văn công bị đám lính Tàu lao vào xâu xé hãm hiếp…
Bảy xác chị em chiến sỹ văn công, không một mảnh vải, bị chúng xếp thành hàng
phơi ngoài cánh đồng mười mấy ngày…”
Và,
có những trang viết về người lính khi tiếng súng đã tạm yên vẫn làm ta khóc to
lên nức nở:
“Tuần
đầu tiên sau chiến tranh có một việc bất ngờ là tiểu đoàn được xem văn công
xung kích ngay tại trận địa… Tốp ca nam ba người hát “Làng tôi sau lũy tre mờ
xa…” Nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ quê rớt nước mắt. Suốt hơn một tháng, tin tức chỉ được
nghe qua chiếc radio của chính trị viên, thư từ liên lạc bị ách hết, biết chắc
mẹ ở nhà rất nóng ruột chờ tin… Tôi nói với một cậu văn công: “Bạn về Thái
Nguyên, đánh điện về cho gia đình tôi mấy chữ rằng tôi còn sống kẻo mẹ tôi khóc
hết nước mắt.” Cậu văn công nghe xong nói nhỏ với anh Trưởng đoàn. Anh Trưởng
đoàn đứng lên nói to, các đồng chí hãy cho chúng tôi địa chỉ về đến Thái Nguyên
chúng tôi sẽ tìm cách báo tin về nhà sớm nhất. Anh vừa dứt lời, rào rào tiếng
hoan hô, tiếng vỗ tay của lính… Cuối năm đó tôi được về thăm nhà, mẹ tôi đưa
tôi xem bức điện báo, gửi từ Thái Nguyên: “Mẹ đừng khóc, con trai của mẹ vẫn
còn sống”.
Theo
tác giả:
“Chiến
tranh nghiệt ngã vô cùng, tháng 2-1979, có không ít những kẻ hèn nhát vứt súng
chạy dài nhưng cũng rất nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm, hy sinh oanh liệt.
Nói không sợ chết là không đúng. Không ai là không sợ, không ai muốn chết. Nhất
là khi nhìn trực tiếp chớp lòe đạn pháo bắn tung chiến hào, những xác người
văng lên tan nát và những tiếng kêu la đau đớn… Đạn cày xối xả bên mình, dưới
chân đồi bọn lính Tàu đông lúc nhúc, thổi kèn, phất cờ, hò hét tả lớ, tả lớ
xung phong. Nhưng tại sao người lính không buông súng bỏ chạy…”
Đọc
những trang viết của những người lính mới thấy, phần lớn những người thực sự
anh hùng hoặc đã chết hoặc đã trở về quê lặng lẽ với những ước mơ vô cùng giản
dị. Nhiều người trong số họ đã rất mưu lược khi chỉ huy, đã rất can trường
trong chiến tranh…; nhưng đã trở về với những vết thương, bệnh tật, vất vả mưu
sinh và chết trong khó khăn, cô độc.
Đọc
những trang viết của lính mới thấy, khi kể lại những ngày xả thân bảo vệ quê
hương, không ai trong họ tìm kiếm những tấm huy chương. Họ đã chống quân xâm
lược Trung Quốc bằng máu, bằng tính mạng của chính mình. Và nay, dù khao khát
hòa bình, họ yêu cầu phải gọi đúng tên cuộc chiến mà họ đã hy sinh xương máu:
Cuộc chiến chống quân Trung Quốc xâm lược.
PS:
Vì bản thảo đang ở dạng nguyên liệu, hẳn tác giả sẽ còn mất nhiều thời gian để
hoàn chính nó thành một bộ sử liệu quan trọng, tôi xin chưa nói thêm gì về tác
giả và tác phẩm.
.
NHỮNG NGƯỜI
CHỐNG TRUNG QUỐC BẰNG MÁU CỦA CHÍNH MÌNH (II)
“Điều gì các
viện sử quốc doanh không làm, người lính sẽ tự làm lấy. Đó là ý nghĩ bất chợt của
tôi khi đọc đến trang cuối cùng tập bản thảo của một người lính có mặt tại Cao
Bằng tháng 2-1979. Hơn 180 trang viết ngồn ngộn tư liệu, đang rất thô mộc. Vì
thô mộc như những người lính nên nó quá sống động và vô cùng chân thực”.
Trên đây là mấy dòng tôi viết vào ngày
21-4-2020, khi cuốn sách vẫn đang ở dạng bản thảo. Gần 3 năm sau, bác sĩ Nguyễn
Thái Long đã bổ sung rất nhiều tư liệu và cuốn sách chính thức được xuất bản có
tên: TIẾNG VỌNG ĐÈO KHAU CHỈA [369 trang, Nhã Nam ấn hành].
Bác sĩ Nguyễn Thái Long là người mà vào ngày
17-2-1979, khi chiến tranh xảy ra đang là y sĩ của tiểu đoàn 1, trung đoàn 567.
Cuốn sách là những trang hồi ức về trung đoàn.
Một trung đoàn, trong những năm 1977, 1978, chỉ được giao khoét núi mở đường;
cho tới tháng 12-1978, tức là chỉ còn mấy chục ngày trước Chiến tranh, vẫn
không được huấn luyện sẵn sàng, không được trang bị đầy đủ vũ khí, không được bổ
sung quân số… Một trung đoàn địa phương mà đã phải đối đầu với hai sư đoàn chủ
lực có xe tăng, pháo dàn… suốt 12 ngày đêm ở Tà Lùng, Khau Chỉa…
Có những trang viết như những thước phim:
“Một đám rất
đông lính Trung Quốc bu quanh cây nhãn ở ngã ba thị trấn. Một sỹ quan của ta bị
chúng buộc dây vào chân rồi treo ngược lên cành nhãn. Anh ấy bị tra tấn... Từ
xa nhìn qua ống nhòm chỉ thấy anh rũ rượi, quằn quại… Một lúc sau, anh dãy lên
vài cái rồi hy sinh. Mấy cậu trinh sát định nã vào đám lính Tàu mấy loạt AK
nhưng anh Khắc ngăn lại, tầm bắn hơi xa, vả lại nhiệm vụ chính là đi trinh sát.
Anh Khắc mắt đỏ hoe…”
Có những trang viết làm ta lặng người đi:
“Sáng sớm
2-3, bọn tàu tràn vào đen đặc cả cánh đồng… Hai nữ y tá của đại đội quân y
trung đoàn là Đinh Thị Tuyến và Nguyễn Thị Huệ không còn đường rút đành đưa
thương binh nặng ở lại hang Keng Riềng (Ngườm Hẩu) ẩn náu, cùng đi có cả mấy
người dân tự nguyện giúp bộ đội chăm sóc thương binh. Cả hang chỉ có một khẩu
CKC với mấy chục viên đạn…, Tuyến và Huệ đã bắn những viên đạn cuối cùng vào
đám lính Trung Quốc tấn công lên hang. Bọn lính chặn cửa hang, dùng súng phun lửa,
B40, B41 bắn vào... Hang Keng Riềng cháy đen khét lẹt, những xác người bị cháy
thui co quắp, nứt toác...”
Có những trang viết làm máu trong người ta
sùng sục sôi:
“…Ngày 28-2,
liên lạc trung đoàn về báo cho đội văn công và trung đoàn bộ ở bản Chang về xã
Hoàng Hải để rút cùng trung đoàn… Đoàn người hôm đó khoảng hơn bốn chục người,
chủ yếu là nữ, vũ khí chỉ có 1 AK và 1 CKC... Vượt quốc lộ 3, đoạn Lũng Xỏm, Lạc
Diễn chừng một cây số thì đụng ổ phục kích của lính Trung Quốc. Minh Lý nổ súng
chặn giặc và hô anh chị em chạy lên núi. Chỉ có mấy người chạy thoát... Bọn
lính Trung Quốc quây bắt được mười mấy người, chúng đâm chết mấy chiến sỹ nam,
các chiến sỹ nữ văn công bị đám lính Trung Quốc lao vào xâu xé hãm hiếp, rồi
dùng cọc nhọn, lưỡi lê đâm nát thi thể các cô gái. Hai mươi người bị giết hại,
các thi thể nữ không một mảnh vải bị chúng phơi ngoài cánh đồng mấy ngày…”
Và, có những trang viết về người lính khi tiếng
súng đã tạm yên vẫn làm ta khóc to lên nức nở:
“Tuần đầu
tiên sau chiến tranh có một việc bất ngờ là tiểu đoàn được xem văn công xung
kích ngay tại trận địa… Tốp ca nam ba người hát “Làng tôi sau lũy tre mờ xa…”
Nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ quê rớt nước mắt. Suốt hơn một tháng, tin tức chỉ được
nghe qua chiếc radio của chính trị viên, thư từ liên lạc bị ách hết, biết chắc
mẹ ở nhà rất nóng ruột chờ tin…
Tôi nói với
một cậu văn công: “Bạn về Thái Nguyên, đánh điện về cho gia đình tôi mấy chữ rằng
tôi còn sống kẻo mẹ tôi khóc hết nước mắt.” Cậu văn công nghe xong nói nhỏ với
anh Trưởng đoàn. Anh Trưởng đoàn đứng lên nói to, các đồng chí hãy cho chúng
tôi địa chỉ về đến Thái Nguyên chúng tôi sẽ tìm cách báo tin về nhà sớm nhất.
Anh vừa dứt lời, rào rào tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay của lính…
Cuối năm đó
tôi được về thăm nhà, mẹ tôi đưa tôi xem bức điện báo, gửi từ Thái Nguyên: “Mẹ
đừng khóc, con trai của mẹ vẫn còn sống”.
Theo tác giả:
“Chiến tranh
nghiệt ngã vô cùng, tháng 2-1979, có không ít những kẻ hèn nhát vứt súng chạy
dài nhưng cũng rất nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm, hy sinh oanh liệt. Nói
không sợ chết là không đúng. Không ai là không sợ, không ai muốn chết. Nhất là
khi nhìn trực tiếp chớp lòe đạn pháo bắn tung chiến hào, những xác người văng
lên tan nát và những tiếng kêu la đau đớn… Đạn cày xối xả bên mình, dưới chân đồi
bọn lính Trung Quốc đông lúc nhúc, thổi kèn, phất cờ, hò hét tả lớ, tả lớ xung
phong. Nhưng tại sao người lính không buông súng bỏ chạy…”
Đọc những trang viết của những người lính mới
thấy, phần lớn những người thực sự anh hùng hoặc đã chết hoặc đã trở về quê lặng
lẽ với những ước mơ vô cùng giản dị.
Mặc dù, trận đánh ở cao điểm A6b ngày
31-5-1985 đã được đưa vào giảng dạy ở các trường quân sự Việt Nam, không ai nhắc,
những người trụ lại cao điểm A6b, Vị Xuyên - nơi được gọi là “Lò Vôi Thế Kỷ” -
chính là những người lính của Trung đoàn 567. Năm 2016, khi thành lập Ban liên
lạc cựu binh Mặt trận Vị Xuyên, mấy chục vị tướng tá, say sưa nói tới trận đánh
A6b nhưng không ai nói về Trung đoàn 567 [dù 567 đã từng được anh hùng].
Cả Trung đoàn 567 biết Hồ Tuấn đã chiến đấu ở
Khau Chỉa như một anh hùng. Người lính thông tin Đỗ Quang Thịnh chứng kiến sự
hy sinh anh dũng của đại đội trưởng Phạm Xuân Giao trên chốt A6b ngày 7-6-1985.
Không ai trong họ được vinh danh. Đỗ Quang Thịnh từng nhắn cho tác giả Nguyễn
Thái Long: “Cám ơn anh đã viết… còn hỏi huân huy chương thì giấy tờ mệt lắm, em
không hỏi đâu. Con em nó bảo: Bố không được tặng huân chương nhưng với mẹ và
con, bố là một người anh hùng”.
Nhưng, nhân vật ám ảnh nhất trong cuốn sách, với
tôi, là “Bố Hoan”, người tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1, can trường bảo vệ đèo
Khau Chỉa, sau chiến tranh 17-2-1979 là trung đoàn trưởng trung đoàn 567. Hình ảnh
ông, một người lính già xuất ngũ, ngồi trên xe ngựa, chở 2 bao gạo từ Biên giới
về quê Lý Nhân, Hà Nam, thật tiêu biểu cho hình ảnh những người dân Việt Nam.
Những người, trong chiến tranh, sẵn sàng sinh tử để bảo vệ giang san; khi giặc
tan, chỉ mong được trở về, mong có được một ngôi nhà cho riêng mình.
“Bố Hoan” nhập ngũ 1949, trải qua 3 cuộc chiến
tranh; năm 1982 xuất ngũ, năm 1986 phải rứt ruột bỏ lại căn nhà ước mơ cả đời mới
dựng được trên đất hương hỏa vào Nam “kinh tế mới” và chết khi tha hương, trong
lặng lẽ.
Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa không phải là cuốn
sách đầu tiên viết về Cuộc chiến chống quân Trung Quốc xâm lược, bắt đầu từ
17-2-1979. Nhưng, chưa có cuốn sách nào viết về chiến tranh này cận cảnh, khốc
liệt như Tiếng Vọng Đèo Khau Chỉa.
Cuốn sách của bác sĩ Nguyễn Thái Long không phải
là hồi ức cá nhân, nó “được viết” bởi những người lính trung đoàn 567. Những
người đã chống Trung Quốc bằng máu của chính mình.
Chính sử ít khi “nhớ mặt” những người đã thực
sự hy sinh, vệ quốc. Nhưng, những người lính không bao giờ quên nhau. Những gì
mà những cựu binh trung đoàn 567 đã nói trong cuốn sách này, đã làm để tưởng nhớ
đồng đội ở Khau Chỉa, Keng Riềng… mãi mãi sẽ được giữ trong lòng người Việt.
Hình :
https://www.facebook.com/photo/?fbid=5757034817664985&set=pcb.5757054797662987
Ban chỉ huy
trung đoàn 567 tại Cao Bằng trước 2-1979.
https://www.facebook.com/photo?fbid=5757035064331627&set=pcb.5757054797662987
https://www.facebook.com/photo?fbid=5757035900998210&set=pcb.5757054797662987
Các cựu binh
trung đoàn 567 về dự buổi ra mắt cuốn sách: Tiếng Vọng Khau Chỉa.
https://www.facebook.com/photo?fbid=5757036197664847&set=pcb.5757054797662987
Chụp với tác giả Nguyễn Thái Long trong
can-tin trạm 66.
.
No comments:
Post a Comment