Tôi hay bị làm phiền bởi những người hỏi tôi
“đã làm gì cho đất nước này” [1] khi tôi có ý phê bình các chánh sách của Nhà
nước. Câu hỏi đó không chỉ không cần thiết mà còn biểu hiện thói nguỵ biện rất
thô thiển.
Nguỵ biện (người phương Tây gọi là ‘fallacy’),
nói ngắn gọn, là lỗi lầm mang tính logic trong bàn luận. Nguỵ biện trong bàn luận
(chưa nói đến ‘tranh luận’ vốn cần một trình độ nhứt định) bao gồm những
• những luận điểm bất hợp lí,
• những phát biểu nhằm đánh lạc hướng vấn đề,
hay
• những phát biểu mang tính khẳng định nhưng
chẳng có gì làm chứng cớ.
Tất cả chúng ta đều ít nhứt 1 lần phạm phải những
lỗi lầm này — có khi là vô ý. Người ta thốt ra những lời nói hay viết xuống những
câu để đánh tráo vấn đề và gây nhiễu loạn trong bàn luận. Tôi quan sát thấy vài
lỗi nguỵ biện phổ biến ở người Việt chúng ta. Những gì tôi quan sát không có gì
mới cả, nhưng thiết nghĩ cần nhắc lại ở đây.
1. Công kích cá nhân (ad hominem)
Đây là một loại ngụy biện phổ biến nhất, thệtấp
kém nhất, nguy hiểm nhất, nhưng có “công hiệu” nhất. Nguy hiểm vì nó tấn công
vào cá nhân của người phát biểu hơn là quan điểm của người phát biểu. Từ đó,
người ta chỉ tập trung vào cá nhân hơn là quan điểm của cá nhân đó.
Có 5 hình thức phổ biến thuộc loại ngụy biện
này:
Loại thứ nhứt là tấn công vào uy tín cá nhân của người phát biểu, kiểu "Anh là
dân làm kinh tế, biết gì về khoa học mà nói chuyện nghiên cứu khoa học". Tức
là, người ngụy biện không bàn về lí lẽ của người phát biểu về khoa học mà tấn
công vào cái 'background' của người đó.
Loại thứ
hai là dưới hình thức sỉ nhục, hay chửi rủa. Khi
bất đồng ý kiến, người ngụy biện chỉ việc công kích vào cá nhân của người phát
biểu. Chẳng hạn như "Bà hay đánh con, bà không có tư cách nói chuyện nhân
nghĩa".
Loại thứ ba
là tấn công vào động cơ của người phát biểu. Mặc
dù không biết động cơ của người phát biểu là gì, kẻ nguỵ biện vẫn đặt ra một
cái cớ để làm lạc hướng luận điểm của người phát biểu. Ví dụ tiêu biểu là
"Anh nói như vậy là vì anh muốn được chút ơn huệ của kẻ cầm quyền".
Loại thứ tư là tấn công vào lòng yêu nước. Tiêu biểu cho loại ngụy biện này là:
"Anh im đi! Nếu anh thấy nền giáo dục Việt Nam kém cỏi như vậy thì anh hãy
đi Mĩ mà học."
Loại thứ
năm là dùng một đặc điểm của một vật thể nào đó để
ứng dụng cho một cá nhân hay một vật thể khác. Ví dụ: “Anh học của Tây có vài
chữ mà đã quay lại chửi bới đồng nghiệp à? Anh là con công cháu cha, anh không
hiểu gì về sự nghèo khổ của chúng tôi.”
2. Lợi dụng thẩm quyền (ad verecundiam)
Đây là loại ngụy biện dùng những nhân vật nổi
tiếng hay được nhiều người ái mộ để tìm sự ủng hộ cho luận điểm của mình. Chẳng
hạn như "Cái bàn chải đánh răng này được giới nha sĩ ủng hộ, nên nó tốt lắm",
hay "Báo chí loan tin hà rầm rằng gia đình đó loạn luân mà ông còn cãi à?
Ai cãi là ngu si, hèn hạ”. Hèn hạ?
Cái sai ở đây là thẩm quyền (báo chí, chuyên
gia, Nhà nước, v.v.) không thuyết phục được ai; chỉ có sự thật, lí lẽ và logic
mới quan trọng và có khả năng thuyết phục. Do đó, việc xem thẩm quyền là chân
lí là một nguỵ biện, và loại nguỵ biện này rất phổ biến và nguy hiểm. Nguy hiểm
là vì nó làm thui chột tư duy độc lập của người ta. Nguy hiểm là vì nó có thể
đưa người vô tội vào tù.
3. Lợi dụng nặc danh
Trong trường hợp này, người ngụy biện không
nêu danh tính người có thẩm quyền, và vì không ai biết tên người có thẩm quyền
nên không ai có thể kiểm chứng sự chính xác của lời phát biểu. Một ví dụ tiêu
biểu là "Các chuyên gia nói với tôi rằng chủ trương của chúng tôi là hợp
lí." Ở đây, chúng ta không biết chuyên gia là ai (nặc danh), mà cho dù có
biết thì đây cũng là nguỵ biện loại lợi dụng thẩm quyền.
Một loại ngụy biện khác có quan hệ với loại
này là dùng lời đồn đại để làm cơ sở lập luận. Giới công an cảnh sát hay sử dụng
ngụy biện này, ví dụ như “Có nhiều đơn của nhân dân tố giác rằng cái hộ gia
đình này phạm pháp.” Chẳng ai biết 'nhân dân' là ai, nhưng nó bị đem ra làm cơ
sở cho nguỵ biện.
4. Luận điệu ngược ngạo
Loại nguỵ biện này hay xuất hiện dưới hình thức
bằng chứng. Chẳng hạn như kẻ nguỵ biện phát biểu rằng "Gia đình đó có loạn
luân", nhưng khi bị người ta bác bỏ phát biểu đó thì kẻ nguỵ biện quay
sang hỏi: "Anh nói họ không loạn luân, vậy anh chứng minh đi".
Đây là nguỵ biện khá phổ biến, mà theo đó kẻ
nguỵ biện đùn đẩy trách nhiệm bằng chứng về phía người phát biểu trong khi
chính người phát biểu cáo buộc phải trình bày bằng chứng. Loại nguỵ biện này
khá thô thiển, nhưng ngạc nhiên thay nó thuyết phục khá nhiều người ngây thơ!
5. Làm lạc
hướng câu chuyện
Loại ngụy biện này thường hay được ứng dụng
khi một người nào đó đưa vào những phát biểu không dính dáng gì đến vấn đề đang
tranh luận, nhằm mục đích đánh lạc hướng vấn đề.
Một trong những ví dụ tiêu biểu của nguỵ biện
loại này là những câu qua lại về tu sĩ. Người phát biểu cảm thấy tu sĩ đóng
phim là không phải, người nguỵ biện quay sang tấn công … Đức Giáo Hoàng:
“Nếu bà cho rằng bà có cái quyền tấn công tăng
ni tham gia đóng phim thì bà trước nhứt nên tấn công hai Đức Giáo Hoàng của bà
trước thì đó mới là công bằng”.
Một ví dụ khác: “Anh có thể nói rằng tử hình
là một hình phạt không có hiệu quả trong việc chống lại tội phạm, nhưng còn nạn
nhân của tội phạm thì sao?” Tức là, người ngụy biện chuyển chủ đề về hiệu quả của
án tử hình sang nạn nhân, hai vấn đề chẳng có liên quan gì với nhau. Đây là nguỵ
biện cá trích.
Tranh luận và phản biện?
Ở Việt Nam, người ta thích dùng từ 'phản biện'
và 'tranh luận', nhưng trong thực tế thì chẳng có tranh luận gì cả mà chỉ là
cãi lộn. Trong cãi lộn thì không có phản biện. Muốn phản biện đàng hoàng thì cần
phải có tranh luận nghiêm túc.
Nhưng thế nào là tranh luận nghiêm túc? Nói một
cách ngắn gọn, cũng như trong một cuộc đấu võ, các võ sĩ phải tuân thủ luật
chơi một cách nghiêm ngặt; tương tự, một tranh luận nghiêm túc là một cuộc bàn
luận có qui tắc, mà trong đó người tham gia không được, hay cần phải tránh, phạm
luật chơi.
Những qui tắc chung và căn bản là người tham
gia chỉ phát biểu bằng cách vận dụng những lí lẽ logic, với thái độ thành thật
và cởi mở, chứ không phát biểu theo kiểu cảm tính, lười biếng, hay biểu hiện một
sự nguỵ biện.
Nhưng rất tiếc là nguỵ biện là một thủ thuật rất
rất phổ biến ở người Việt. Nó (nguỵ biện) xuất hiện hàng ngày trong các cuộc đối
thoại, trên hệ thống truyền thông. Những câu như “Nhân dân tin tưởng …”, “Cơ
quan chức năng đã kết luận …”, “Phương pháp điều trị này đã được các giáo sư,
tiến sĩ chấp nhận …”, vân vân. Nhiều người đọc/nghe những câu như thế nhưng
không thấy đó là nguỵ biện, và thế là họ nghiễm nhiên sử dụng trong các đối thoại
sau đó.
Do đó, không mấy ai ngạc nhiên khi thấy có quá
nhiều trường hợp chất lượng của những cuộc tranh luận giữa người Việt rất thấp.
Chỉ cần xem qua những cái-gọi-là “tranh luận” trên các diễn đàn báo chí chỉ là
những cuộc đụng độ giũa các cá nhân tham gia tranh luận, những cuộc chửi bới,
chẳng có lí luận của người tranh luận.
Thật vậy, rất nhiều trường hợp, những cuộc
tranh luận giữa người Việt chỉ là những cuộc chửi lộn. Vì chửi lộn nên người ta
nhắm vào mục tiêu là nhân thân, cá nhân của người tranh luận chứ không nhắm vào
quan điểm và lí lẽ của người đó.
Thay vì tranh luận thẳng vào vấn đề, người ta
tìm cách gắn cho đối phương một nhãn hiệu (như ‘phản động’ chẳng hạn) và từ đó
làm lu mờ đi quan điểm của họ. Trong hầu như những tranh luận, nhiều người cố
tìm hay tạo cho mình một vị trí đạo cao đức trọng cả bằng cách gắn cho đối
phương những danh từ và tính từ mang tính miệt thị, một thủ đoạn có khả năng
làm cho một cuộc tranh luận trở nên một cuộc ẩu đã ngôn từ đinh tai nhức óc
thay vì là một trao đổi khoa học. Chẳng có tranh luận hay phản biện gì trong những
trường hợp như thế.
****
Ngụy biện, nói cho cùng, là một sản phẩm của sự
lười biếng suy nghĩ. Và hầu như trong chúng ta, ai cũng có ít nhất là một lần
lười suy nghĩ. Do đó, nếu điểm qua những loại ngụy biện trên đây, chúng ta tự cảm
nhận rằng trong quá khứ mình chắc cũng có lần phạm vào lỗi lầm của ngụy biện.
Nhưng tại sao những ngụy biện vẫn còn có mặt
trên báo chí? Theo tôi, bởi vì chúng vẫn có khách hàng. Vẫn có người, dù ít hay
nhiều, tin tưởng vào ngụy biện, vì nó thuận nhĩ, trơn tru, và nhất là không
thách thức. Sờ một hòn đá trơn tru đem lại cho chúng ta một cảm giác khoan
khoái dễ chịu hơn là sờ một hòn đá lởm chởm, hay ngồi trên một cái ghế ghồ ghề.
Người ta thích sự trơn tru, bởi vì trơn tru là dấu hiệu của sự khoan khoái, dễ
chịu, là cái khoảng thời gian giải lao, không cần sự thách thức.
Những phát biểu ngụy biện thốt ra từ những người
mang danh tu sĩ và trí thức chỉ là những lời phát biểu lém lỉnh thay vì lịch
thiệp, hàm chứa mánh khóe thay vì thân thiện. Có thể nói, ngụy biện là những lối
sáo ngữ liến thoắng nhằm vào mục đích lôi cuốn người nghe/đọc và đánh lảng vấn
đề, thay vì cung cấp cho họ một sự thật. Nhưng khi nguỵ biện làm cho người ta
đi tù thì nguỵ biện trở thành một tội ác.
Cô Nguyễn Cao Kỳ Duyên có lần nói rằng Nhà văn
Nguyễn Ngọc Ngạn kể với cô là "Văn hóa Tây thiên về khuyến khích, còn văn
hóa Việt thiên về chỉ trích”. Tôi thấy rất đúng, nhưng muốn thêm văn hoá nguỵ
biện nữa.
____
[1] Rất khó nói chuyện với mấy người như thế
này vì họ chẳng biết những gì mình làm cho Việt Nam, nhưng chẳng lẽ mình phải ê
a kể ra? Thành ra, cách tốt nhứt là bỏ qua loại ngụy biện này mà tập trung vào
vấn đề đang bàn.
.
No comments:
Post a Comment