Cuộc tranh luận về định hướng
địa chiến lược của Việt Nam bỏ sót điều gì
Lan D. Ngo
Bauxite Việt Nam
dịch
16/12/2022
https://boxitvn.online/?p=82583
Việt Nam nên tiếp tục xây dựng lực lượng hải
quân hay nên xoay trục về đất liền để đảm bảo an ninh tốt nhất? Ít ai nghi ngờ
đó là một câu hỏi quan trọng cần được xem xét kỹ lưỡng. Là một cường quốc hạng
trung mới nổi, Việt Nam đơn giản là không có đủ nguồn lực để cùng lúc theo đuổi
một lực lượng hải quân hùng mạnh và một lực lượng lục quân hùng mạnh. Do đó, việc
cân nhắc lựa chọn những chiến lược phù hợp là rất quan trọng để đảm bảo an ninh
quốc gia.
https://drive.google.com/uc?id=1oSfLPI64GMOJFfaVQOuLcjYGpr0ByZYw
Ảnh: Bộ Quốc
phòng.
Tuy nhiên, cuộc thảo luận gần đây trên diễn
đàn này về định hướng địa chiến lược của Việt Nam, được khơi mào bởi bài viết của
Khang
Vũ, đã bỏ sót một điểm rất quan trọng. Việc tranh luận về việc quân đội Việt
Nam nên tăng cường sức mạnh trên đất liền hay trên biển sẽ chẳng có giá trị gì
nếu không xác định rõ ràng và chính xác kiểu Việt Nam bị đe doạ an ninh trong
tương lai và kịch bản Việt Nam bị tấn công trong tương lai. Xét cho cùng, việc
tăng cường trang bị cho quân đội của một quốc gia sẽ không cải thiện an ninh quốc
gia nếu các hệ thống vũ khí được mua và học thuyết quân sự được phát triển
không phù hợp với mối đe dọa có thể xảy ra nhất.
Trong bài báo của Euan
Graham và Bich Tran trên Strategist, các tác giả về cơ bản lập luận rằng
quân đội Việt Nam nên tiếp tục tập trung vào hàng hải hiện tại vì nền kinh tế định
hướng xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc vào tự do hàng hải ở Biển Đông. Họ lo ngại
rằng Việt Nam có thể bị tấn công bởi sự phong tỏa nếu Trung Quốc có “quyền kiểm
soát không thể tranh cãi trong cái gọi là đường chín đoạn, và giành được quyền
tiếp cận một căn cứ hải quân ở Campuchia”. Tuy nhiên, họ không chỉ rõ “quyền kiểm
soát không thể tranh cãi” nghĩa là gì, và điều gì sẽ khiến Trung Quốc phong tỏa
Việt Nam. Do đó, không rõ tại sao cuộc phong tỏa hải quân này lại là kịch bản ác
mộng đối với các nhà hoạch định chính sách Việt Nam và làm thế nào để lực lượng
hải quân Việt Nam có thể ngăn chặn kết quả như vậy.
Trong khi Nguyễn
Thế Phương đồng cảm với quan điểm của Graham và Trần rằng Việt Nam nên ưu
tiên đầu tư vào khả năng hàng hải của mình, thì ông đã làm tốt hơn khi chỉ rõ
những mối đe dọa nghiêm trọng mà Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt trong tương
lai. Theo ông Nguyễn, Hà Nội nên lo ngại nhất về một cuộc xung đột quân sự ở Biển
Đông, điều sẽ xảy ra sau các cuộc tấn công phủ đầu (có lẽ là của Trung Quốc) bằng
vũ khí tầm xa và tấn công mạng. Kịch bản ác mộng khác sẽ là ‘phong tỏa hàng hải
các tiền đồn của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa’. Rõ ràng bằng cách đầu tư vào
năng lực hàng hải, Việt Nam có thể ngăn cản Trung Quốc dự tính hoặc thực hiện
những hành động gây hấn như vậy. Tuy nhiên, như cuộc chiến tranh Nga-Ukraine đã
cho thấy, khi bên tấn công mạnh hơn nhiều so với bên phòng thủ và quyết tâm gây
chiến, có khả năng là không có hình thức răn đe hiệu quả nào ngoài răn đe hạt
nhân.
Trái ngược với các tác giả trước, Vũ
cho rằng Việt Nam nên ưu tiên lực lượng trên bộ, vì chiến đấu trong các cuộc
chiến tranh trên bộ luôn quan trọng đối với an ninh của Việt Nam hơn là trên biển.
Mặc dù tôi đồng ý với ông ấy rằng các mối đe dọa trên bộ rõ ràng gây ra mối
nguy hiểm lớn hơn đối với an ninh Việt Nam, nhưng tôi không thể thấy việc đầu
tư vào một đội quân trên bộ hùng mạnh sẽ ngăn cản Trung Quốc biến Lào và
Campuchia chống lại Việt Nam như thế nào. Việc Việt Nam có thể đảm bảo rằng hai
nước láng giềng vẫn duy trì các điều khoản thân thiện hay không là tùy thuộc
vào chính sách đối ngoại và sự nhanh nhạy ngoại giao của Việt Nam, chứ không phải
quân đội. Ngoài ra, không rõ ông Vũ đang tranh luận về điều gì trên thực tế. Giả
định rằng các mối đe dọa từ đất liền nghiêm trọng hơn, các nhà lãnh đạo Việt
Nam nên tập trung vào điều gì? Cụ thể hơn, quân đội Việt Nam nên trang bị loại
sức mạnh quân sự nào và nhằm mục đích chiến lược nào?
Do Việt Nam nằm trên lục địa châu Á nhưng có
đường bờ biển dài, nên về lâu dài chắc chắn Việt Nam phải chuẩn bị cho cả hai
loại mối đe dọa. Tuy nhiên, do tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông sẽ không sớm
kết thúc và Việt Nam đã đạt được bước tiến lớn trong việc phân định biên giới
trên đất liền với tất cả các nước láng giềng, nhiều khả năng các cuộc xung đột
vũ trang trong tương lai gần sẽ là ở trên biển hơn là trên đất liền. Do đó, những
câu hỏi quan trọng là: xung đột như vậy có thể bùng phát trong hoàn cảnh nào,
và nó sẽ như thế nào?
Trong nghiên cứu năm 2008 về cách tiếp cận của
Trung Quốc đối với các tranh chấp lãnh thổ, M.
Taylor Fravel chỉ ra rằng Bắc Kinh có thói quen hành động hung hăng trong
các tranh chấp lãnh thổ để ngăn chặn sự suy giảm khả năng thương lượng của mình
đối với các bên khác. Nói cách khác, chúng ta nên lo lắng nhất về việc Trung Quốc
tiến hành các cuộc xung đột vũ trang khi Bắc Kinh cảm thấy bất an vì sức mạnh của
họ đang suy giảm đến mức không còn có thể thực thi yêu sách lãnh thổ của mình,
hoặc vì các quốc gia khác đang có những hành động quyết liệt nhằm mở rộng quyền
kiểm soát của họ đối với các vùng lãnh thổ đang tranh chấp. Logic này giải
thích tại sao Trung Quốc kiềm chế không xâm lược Đài Loan nhưng luôn phản ứng mạnh
mẽ trước bất kỳ dấu hiệu nào về nền độc lập của Đài Loan. Dựa trên suy nghĩ
này, cách phòng thủ không tìm cách giảm bớt sự kiểm soát của Trung Quốc đối với
một phần lãnh thổ tranh chấp sẽ có khả năng thành công hơn trong việc ngăn chặn
hoặc ít nhất là trì hoãn xung đột.
Giả sử rằng có sự xung đột vũ trang nào đó
trong tương lai giữa Trung Quốc và Việt Nam diễn ra trên Biển Đông, rất có thể
nó sẽ nổ ra khi Bắc Kinh cảm thấy họ đang mất quyền kiểm soát đối với một số đảo
tranh chấp vì quần đảo này đã bị suy yếu hoặc vì các bên khác đang liên kết với
nhau để giải quyết các tranh chấp của họ mà không có sự tham gia của Trung Quốc.
Và nếu Trung Quốc khơi mào xung đột do bất an, thì nước
này có thể sẽ hướng tới một việc đã rồi xảy ra một cách nhanh chóng thay vì
một cuộc hải chiến quy mô lớn. Ví dụ, Trung Quốc có thể chiếm một hoặc hai hòn
đảo do quốc gia khác kiểm soát và sau đó thách thức bên phòng thủ leo thang
xung đột và có nguy cơ khơi mào chiến tranh để chiếm lại lãnh thổ đã mất. Điều
đó sẽ cho phép Trung Quốc khẳng định chủ quyền và sự thống trị khu vực với chi
phí và rủi ro thấp hơn, tương tự như việc Nga sáp nhập Crimea.
Do đó, thách thức chính đối với Việt Nam không
phải là ngăn chặn một cuộc chiến tranh trên biển mà là phát triển đúng loại
năng lực hàng hải cho phép Việt Nam chiến đấu hiệu quả trong vùng xám. Chính
xác hơn, Việt Nam cần một lực lượng dân quân hải quân mạnh mẽ để có thể không
cho phép Trung Quốc kiểm soát hoàn toàn bất kỳ hòn đảo tranh chấp nào mà không
công khai leo thang xung đột đến mức chiến tranh. Tên lửa và máy bay chiến đấu
sẽ không hữu ích ở đây. Radar và một đội tàu tuần tra được trang bị tốt có thể
phản ứng nhanh chóng và mạnh mẽ sẽ đóng một vai trò quan trọng hơn trong việc
duy trì hiện trạng. Mục tiêu chiến lược là không cho phép diễn ra một sự việc
đã rồi và tạo không gian cho ngoại giao để xoa dịu khủng hoảng.
Chính vì những điều cụ thể này mà chúng ta nên
tiếp tục tranh luận về các lựa chọn chiến lược của Việt Nam. Sự lựa chọn mở rộng
cả hai giữa trọng tâm hướng vào đất liền và định hướng trên biển là không hiệu
quả. Điều quan trọng là quân đội phải sẵn sàng chiến đấu và chiếm ưu thế trong
các loại xung đột có thể nổ ra, dù trên đất liền hay trên biển.
L.D.N.
*
Lan D. Ngo là nghiên cứu sinh tiến
sĩ khoa Chính trị tại Đại học Brandeis ở Massachusetts.
NGUỒN : What
the debate on Vietnam’s geostrategic orientation misses, The Strategist, 5 Dec
2022
No comments:
Post a Comment