Vì
sao giá xăng ở Mỹ cao dù sản xuất dầu nhiều nhất thế giới?
Mai
Phi Long/Người Việt (tổng
hợp)
October 10, 2022
WASHINGTON, DC (NV) – Nước Mỹ sản xuất 18.8 triệu thùng dầu thô/ngày, đứng đầu thế giới. Hạng
nhì là Saudi Arbia, 10.8 triệu thùng, và hạng ba là Nga, 10.7 triệu thùng,
theo thống
kê của Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2022/10/TS-ta-than-gia-xang-1-1068x661.jpeg
Nước Mỹ tiêu thụ dầu
nhiều nhất, trên 20 triệu thùng/ngày, chiếm 1/5 mức tiêu thụ toàn cầu. (Hình
minh họa: Kevin Dietsch/Getty Images)
Mỗi ngày nước Mỹ sản xuất nhiều hơn Saudi
Arabia 8 triệu thùng, nhưng vẫn bị vương quốc này “bắt chẹt” khi cùng khối OPEC
Plus thông qua quyết định cắt giảm sản xuất 2 triệu thùng/ngày hôm 5 Tháng Mười
vừa qua.
Vì sao?
Câu trả lời không đơn giản vì sự vận hành sản
xuất của kỹ nghệ dầu và giá cả thị trường thế giới rất phức tạp.
Nước Mỹ tiêu thụ dầu nhiều hơn sản xuất, thể
chế chính trị Mỹ không cho phép kiểm soát công ty tư nhân, và nhiều người dân Mỹ
chưa nhận ra mong ước “xăng rẻ” của họ đối nghịch với quyền lợi của kỹ nghệ dầu.
Đó là vài nguyên nhân chính khiến giá xăng luôn bất ổn.
“Con nghiện” Mỹ
tiêu thụ dầu nhiều hơn mức sản xuất
Toàn thế giới, mỗi ngày cần dùng khoảng 100
triệu thùng dầu, riêng nước Mỹ tiêu thụ nhiều
nhất, trên 20 triệu thùng/ngày, chiếm 1/5 mức tiêu thụ toàn cầu.
Tuy nhiên, sản lượng của Mỹ, khoảng 18 triệu
thùng, ít hơn nhiều so với lượng tiêu thụ, 20 triệu thùng, và đương nhiên, sự
thiếu hụt này phải được bù đắp từ nguồn dầu ngoại quốc.
Khi vẫn thiếu khoảng 2 triệu thùng dầu/ngày,
chỉ cần nguồn cung trên thị trường giảm nhẹ, giống như theo quyết định của khối
OPEC Plus vừa qua, giá cả nhiên liệu ở Mỹ bị ảnh hưởng nhanh chóng.
Quốc gia tiêu thụ dầu nhiều hàng thứ nhì thế
giới là Trung Quốc với mức 15.4 triệu thùng/ngày, ít hơn mức 20 triệu thùng của
Mỹ. Như vậy, mức tiêu thụ của Trung Quốc chỉ bằng 3/4 của Mỹ, dù dân số Trung
Quốc, 1.4 tỉ, đông gần gấp năm lần dân số Mỹ, 330 triệu.
Nhìn tỉ lệ tiêu thụ dầu giữa Mỹ và Trung Quốc
như trên cho thấy chính vì căn nguyên “nghiện dầu” nên chỉ cần một thay đổi bất
thường trên thị trường dầu toàn cầu là dân Mỹ cảm thấy “hụt hơi.”
Do đó, không còn khó hiểu để nhận thấy rằng mỗi
khi có biến động ở eo biển Hormuz là giá xăng thị trường Mỹ tăng dù Hoa Kỳ
không nhập cảng dầu của Iran. Hay như trong việc cấm vận giao thương với
Nga, vì Tổng Thống Vladimir Putin xâm lăng Ukraine, làm chao đảo giá nhiên liệu
tại Hoa Kỳ, dù Mỹ nhập dầu mỏ từ Siberia không đáng kể.
Sản xuất nhiều nhất
không đồng nghĩa kiểm soát được giá cả ổn định
Ngay cả khi sản lượng đáp ứng chính xác nhu cầu
nội địa, Mỹ vẫn cần nhập cảng và xuất cảng dầu liên tục. Bởi vì, chất lượng dầu
thô không đồng nhất, có thể nặng hoặc nhẹ, “ngọt” hoặc “chua,” và những phẩm chất
đó ảnh hưởng đến mức độ cần được tinh chế và mục đích sử dụng. Do đó, kỹ nghệ dầu
mỏ của Mỹ vẫn cần liên tục xuất cảng dầu thô và nhập cảng dầu đã tinh luyện, hoặc
ngược lại.
Như vậy, việc sản xuất dầu hoả lớn nhất không
phải là yếu tố chính trong việc kiểm soát giá dầu thế giới.
“Nói đến bảo vệ nền kinh tế quốc gia khỏi tác
động của những biến động giá dầu toàn cầu, nếu chỉ là một nhà sản xuất dầu lớn
nhất, đơn thuần chẳng có ý nghĩa gì cả,” bình luận của ông Bob McNally, nhà
sáng lập và chủ tịch tổ chức Rapidan Energy Group, chuyên cố vấn thị trường
năng lượng.
“Quyền lực thực sự trong thị trường dầu hoả là
người có khả năng ổn định giá cả,” ông McNally nhận định.
Để tạo được tình trạng ổn định giá cả phải có
“năng lực sản xuất dự phòng” (spare production capacity) theo đánh giá của chủ
tịch tổ chức Rapidan Energy Group.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2022/10/TS-ta-than-gia-xang-2-1068x670.jpeg
Chỉ cần một biến động trên thị trường dầu thế
giới, người dân Mỹ bị “nhức đầu” với giá xăng ngay. (Hình: OLIVIER DOULIERY/AFP
via Getty Images)
Khả năng ổn định
giá cả tuỳ thuộc “năng lực sản xuất dự phòng”
Bộ Năng Lượng giải thích “công
suất dự phòng” là mức sản lượng có thể thay đổi được trong 30 ngày và duy
trì tình trạng đó trong ít nhất 90 ngày.
Để tạo được “công suất dự phòng,” quốc gia đó
phải có “năng lực sản xuất dự phòng.”
Điều này có nghĩa là quốc gia sản xuất dầu đó
phải có năng lực để có thể bơm thêm hoặc giảm thiểu sản lượng, một cách bất chợt,
để đối phó với tình hình biến động nào đó trong thời gian vài tháng.
Khi giá dầu biến động trên toàn thế giới, các
quốc gia sản xuất dầu lớn như Saudi Arabia và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống
Nhất có thể bảo vệ thần dân của họ khỏi “cú sốc” giá cả nhờ tạo được “năng lực
sản xuất dự phòng.”
Năng lực này có được nhờ các lý do địa chính
trị và chính trị khiến các quốc gia Vùng Vịnh Ả Rập xem việc sản xuất dầu mỏ là
vấn đề an ninh quốc gia và có khung luật pháp để bảo đảm việc duy trì “công suất
dự phòng,” theo giải
thích của nhật báo The Atlantic.
Đây chính là vũ khí kiểm soát giá cả trên thị
trường một cách hữu hiệu của các quốc gia đặt an ninh quốc gia triệt để trên việc
xuất cảng dầu.
Saudi Arabia có thể tăng sản lượng tối đa để
giá dầu thô sụt giảm liên tục khiến cho những mỏ dầu mới không sinh đủ lợi nhuận
để những công ty khai thác rơi vào tình trạng èo uột tài chánh, và ngược lại,
vương quốc này có thể cắt giảm sản lượng tối đa để nâng lại giá dầu theo ý họ
muốn.
Nước Mỹ không có
“năng lực sản xuất dự phòng”
Nền tảng kinh tế của nước Mỹ là tư bản.
Liên bang không có quyền trên các mỏ khí đốt
hay dầu hoả trên đất tư nhân.
Chính phủ Mỹ cũng không có biện pháp nào để
khiến các công ty tư nhân gia tăng hay giảm thiểu sản lượng dầu.
Sự tồn tại và phát triển kỹ nghệ dầu mỏ tư
nhân khiến cho nước Mỹ không thể nào có được “năng lực sản xuất dự phòng” để biến
ước mơ “năng lượng độc lập” của các đời tổng thống Mỹ, Cộng Hoà lẫn Dân Chủ, trở
thành hiện thực.
Năm 1973, Tổng Thống Richard Nixon công bố Kế
Hoạch Độc Lập Năng Lượng, một chiến dịch đến năm 1980 sẽ loại bỏ nhập cảng dầu
mỏ ngoại quốc nhập cảng vào Mỹ.
Kế hoạch trên thất bại, nhưng kể từ đó mọi đời
tổng thống kể từ ông Ronald Reagan đến Barack Obama đều hướng tới ước muốn “độc
lập về năng lượng.”
Chỉ có ông Donald Trump, với cách tuyên truyền
cường điệu, bất chấp thực tế cơ chế chính trị và hoạt động của kỹ nghệ dầu, khi cố thổi phồng hình ảnh cá nhân khi “nổ” rằng
nước Mỹ “thống trị năng lượng” thế giới.
Đương nhiên, người Mỹ sẽ hưởng lợi nhiều nếu Kế
Hoạch Độc Lập Năng Lượng thành công, nước Mỹ sẽ không bị vướng vào những khủng
hoảng và chiến tranh, thậm chí, không cần phải chi trả tốn kém cho việc duy trì
những căn cứ quân sự ở Trung Đông.
Nhưng thể chế nước Mỹ không cho phép định đoạt
hoạt động của các công ty tư nhân.
Ngược
lại, dựa vào quyền tự do thương mại và sở hữu hiến định, các công ty dầu mỏ Mỹ
lại có khuynh hướng chống lại sự độc lập về năng lượng cho đất nước.
Bà Ann-Louis Hittle, phó chủ tịch công ty cố vấn
và đầu tư Wood Mackenzie, nhận định rất tốn kém để có được và duy trì “năng lực
sản xuất dự phòng.”
“Giới đầu tư không bao giờ muốn bỏ tiền để ‘ngồi
không’ rồi chờ thời điểm thuận lợi,” bà Hittle nhận định.
Vì vậy, hiện nay “năng lực sản xuất dự phòng”
của Mỹ là một con số “zero.”
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2022/10/TS-ta-than-gia-xang-3-1068x712.jpeg
Mỹ sản xuất nhiều dầu nhất thế giới, nhưng không kiểm
soát được giá dầu. (Hình minh họa: Joe Raedle/Getty Images)
Ước mơ “giá xăng rẻ”
trái ngược với kỹ nghệ dầu mỏ
Chân lý hiển nhiên là: Quyền lợi các công
ty khai thác và lọc dầu tỉ lệ nghịch với ước muốn giá xăng rẻ của người dân Mỹ.
Điều này có nghĩa rất đơn giản là nếu giá xăng
rẻ hơn, lợi nhuận của các công ty giảm. Và nếu, giá xăng “rẻ mạt” theo “mơ ước”
của dân chúng, các công ty dầu sẽ đứng trên bờ vực phá sản vì không còn lợi nhuận.
Đứng trước viễn ảnh khối OPEC Plus sẽ giảm sản
lượng dầu, trước đó, hai “đại gia” kỹ nghệ khai thác dầu Mỹ, công ty American
Petroleum Instute và American Fuel and Petrochemical Manufacturer, đã vội vã gửi
một lá thư đến bà Jennifer Granholm, bộ trưởng Bộ Năng Lượng Mỹ.
Hai “đại gia” này tỏ ý quan tâm đến việc chính
phủ Biden cân nhắc đến chuyện giới hạn lượng dầu xuất cảng để giảm áp lực giá
xăng trong nước.
Giới kỹ nghệ dầu muốn giới chức liên bang ngừng bàn
thảo giải pháp này và cũng không muốn khai thác thêm dầu nội địa dù ngay trong
năm đầu tiên chấp chánh, 2021, Tổng Thống Biden đã cấp hơn 3,500 giấy phép khai
thác dầu và khí đốt, nhiều hơn gần 900 giấy phép so với năm đầu tiên của chính
phủ Trump.
Những công ty có được số giấy phép “hùng hậu” (được
gia hạn mỗi 10 năm) nêu trên không muốn khai thác ngay lập tức để giải quyết
tình trạng thiếu thốn năng lượng hiện nay, mà họ sẽ chờ vào thời điểm có lợi
nhuận cao nhất.
Kinh Tế Gia Douglas Holtz-Eakin, chủ tịch tổ
chức cố vấn chính trị trung hữu, American Action Forum, nhận định trên
PolitiFact rằng: “Các công ty, sau khi có giấy phép khai thác, chờ đợi để bảo đảm
thu được lợi nhuận từ các giếng dầu xứng đáng với mức đầu tư to lớn mà họ bỏ
ra.”
Những người cả tin trút hết bất mãn vào ông
Biden và không hề nghĩ đến hậu quả đại dịch COVID-19 làm thế giới tê liệt năm
2020-2021 và cuộc chiến Nga-Ukraine càng lúc càng tàn bạo làm ảnh hưởng tiêu cực
trên thị trường dầu thế giới.
Họ cũng không nghiệm ra được niềm ao ước giá
xăng rẻ của mình mâu thuẫn hoàn toàn với lợi nhuận của kỹ nghệ khai thác dầu
cùng các chính trị gia được giới tài phiệt năng lượng hóa thạch hậu thuẫn.
Để chấm dứt bị ngoại quốc “bắt chẹt” giá dầu,
người dân Mỹ cần đoạn tuyệt với bệnh “nghiện dầu” bằng cách chuyển sang năng lượng
xanh cũng như sáng suốt trong quyết định chính trị, qua lá phiếu.
Dù giới chính trị gia được kỹ nghệ dầu tài trợ
có khéo tuyên truyền đến đâu, dân chúng cần nhớ rằng vì nền tảng thể chế, kỹ
nghệ dầu Mỹ sẽ không bao giờ đạt được mức độ “năng lực sản xuất dự phòng” để thật
sự độc lập về năng lượng.
Còn xài xăng là còn bị ngoại quốc bắt chẹt.
[đ.d.]
========================================
XEM THÊM
Biden
không có nhiều lựa chọn đối phó việc OPEC giảm sản lượng dầu
October 9, 2022
Tuyên bố cắt 2 triệu thùng dầu mỗi ngày của khối
OPEC Plus, do Saudi Arabia dẫn đầu, được xem “đâm sau lưng” Tổng Thống Biden.
No comments:
Post a Comment