Richard K. Betts -
Foreign Affairs
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch
18/03/2022
https://nghiencuuquocte.org/2022/03/18/ao-tuong-ve-vung-cam-bay/
Tại
Ukraine, ý định tốt cũng không thể cứu vãn nổi ý tưởng tệ.
Đối mặt với
cuộc xâm lược tàn bạo của Nga vào Ukraine, nhiều người Mỹ và châu Âu đang thúc
đẩy chính phủ của họ hỗ trợ quân sự nhiều nhất có thể cho Kyiv. Một ý tưởng được
nhiều nhà quan sát và nhà bình luận nổi tiếng ủng hộ là thiết lập vùng cấm bay
– nghĩa là sử dụng vũ lực (hoặc đe dọa sử dụng vũ lực) để ngăn máy bay Nga bay
vào một số vùng trong không phận phía trên Ukraine, từ đó ngăn chặn các cuộc
không kích của Nga nhắm vào lực lượng quân đội và dân thường Ukraine trong khu
vực. Việc tạo ra một vùng cấm bay như vậy sẽ đòi hỏi kết hợp giữa thu thập
thông tin tình báo hàng ngày, quan sát từ mặt đất, luân phiên tuần tra trên
không với một số lượng lớn máy bay và phi công – và quan trọng nhất, là phải thực
sự ngăn cản máy bay đối phương xâm nhập vào vùng trời đã được chỉ định là vùng
cấm bay.
Đề xuất
vùng cấm bay được lấy cảm hứng từ việc lực lượng Mỹ và NATO đã áp dụng khái niệm
này ở Iraq sau Chiến tranh Vùng Vịnh, ở Bosnia vào giữa những năm 1990, và ở
Libya trong cuộc nội chiến năm 2011. Đáng chú ý, những trường hợp đó đều không
liên quan đến việc áp đặt một vùng cấm đối với một cường quốc. Thay vào đó,
chúng thể hiện việc một siêu cường hùng mạnh, ở đây là Mỹ, đặt ra yêu cầu đối với
các đối thủ địa phương yếu thế hơn, những bên thậm chí còn không đủ khả năng để
đối đầu với Mỹ. Không có ví dụ nào về cái gọi là “vùng cấm bay” được áp đặt lên
một cường quốc, bên ngoài bối cảnh của các trận đánh nhằm giành ưu thế trên
không trong chiến tranh thông thường.
Ý tưởng
thiết lập vùng cấm bay phản ánh một động lực nhân đạo, để giảm bớt đau khổ cho
người Ukraine, và “làm điều gì đó” để chặn quân Nga xâm lược. Nhưng hiện thực
hóa ý tưởng ấy sẽ khiến tình thế đi đến chỗ tồi tệ hơn nhiều. Và kết luận này vẫn
đúng ngay cả trong trường hợp một khu
vực cấm bay hạn chế, như đề xuất hồi đầu tuần của hơn hai chục chuyên gia
và cựu quan chức – một ý tưởng nghe có vẻ hợp lý nhưng trên thực tế lại vô cùng
liều lĩnh.
Một kế hoạch nhiều rủi ro
Vùng cấm
bay hạn chế ở đây nhằm mục đích chủ yếu là bảo vệ các hành lang đưa dân thường
trốn thoát an toàn trước các cuộc không kích từ phía Nga. Tuy nhiên, chí ít thì
trong vài tuần lễ đầu tiên của cuộc chiến, hoạt động của không quân Nga cũng
không phải là vấn đề chính. Pháo binh và tên lửa bắn từ mặt đất gây sát thương
lớn hơn nhiều so với máy bay ném bom Nga, và một vùng cấm bay sẽ không ảnh hưởng
nhiều đến các cuộc tấn công như vậy.
Ngay cả
khi người ta chấp nhận tiền đề rằng việc hạn chế, không cho Nga tiếp cận không
phận Ukraine sẽ tạo ra khác biệt đáng kể, các đề xuất về vùng cấm bay tại
Ukraine vẫn chứa đựng một vài sai lầm nghiêm trọng: hoặc là chúng giả định kịch
bản tốt nhất là người Nga đơn giản sẽ đồng ý với đề xuất này, hoặc chúng chấp
nhận rủi ro đáng kể của việc kích động chiến tranh trực tiếp giữa NATO và Nga.
Có thể Nga
sẽ thận trọng, và đơn giản chấp nhận yêu cầu ngừng tấn công trong và xung quanh
các hành lang dành riêng để sơ tán dân thường. Nhưng điều đó khó có thể xảy ra,
bởi xét cho cùng, Moscow đã đánh cược vào một cuộc chiến mà họ tuyên bố ngay từ
đầu là do mối đe dọa từ NATO thúc đẩy, giai đoạn đầu của cuộc chiến này đã đem
lại kết quả đáng xấu hổ cho quân đội Nga, nhưng không có khả năng Tổng thống
Nga Vladimir Putin sẽ có bất kỳ hành động rút lui nào khi phải đối mặt với tối
hậu thư của NATO.
Nếu người
Nga không thừa nhận vùng cấm bay, NATO sẽ phải quyết định có thực thi nó hay
không, nghĩa là có sẵn sàng bắn hạ máy bay Nga – và sẵn sàng là người bắn những
phát súng đầu tiên hay không. Đừng nhầm lẫn: dù không chiến nhằm thực thi vùng
cấm bay chỉ giới hạn trong không phận Ukraine, nhưng nó vẫn sẽ dẫn đến chiến
tranh giữa NATO và Nga. Và ngay cả một xung đột hạn chế cũng sẽ trở thành một dấu
mốc của thời đại: đây sẽ là cuộc chiến trực tiếp đầu tiên giữa các cường quốc kể
từ năm 1945.
Tất nhiên,
Mỹ và các đồng minh đã tham gia chiến đấu chống lại các lực lượng Nga, nhưng chỉ
là gián tiếp, bằng cách cung cấp vũ khí và vật tư cho Ukraine. Tuy nhiên, tham
gia với mức độ như vậy là dưới ngưỡng leo thang, vốn đã được ngầm thiết lập bởi
kinh nghiệm trong quá khứ. Ví dụ, Liên Xô đã cung cấp vũ khí cho Triều Tiên và
Trung Quốc trong cuộc chiến chống lại người Mỹ ở Hàn Quốc vào những năm 1950,
và một lần nữa hỗ trợ quân cộng sản Việt Nam chống lại lính Mỹ trong những năm
1960. Về phần mình, Mỹ đã giúp đỡ phiến quân thánh chiến Hồi giáo (mujahideen)
chiến đấu với Liên Xô ở Afghanistan trong những năm 1980. Trong những trường hợp
này, người Nga và người Mỹ dù rất tức giận trước thương vong gây ra do hành vi
hỗ trợ, nhưng đã cố gắng không trả đũa bằng vũ lực chống lại các nhà nước hỗ trợ,
vì sợ rằng các cuộc chiến tranh nhỏ sẽ trở thành các cuộc chiến tranh lớn. Đúng
là các phi công Mỹ và Liên Xô đã trực tiếp giao chiến với nhau trong một số trận
không chiến của Chiến tranh Triều Tiên. Nhưng cả hai bên đều giữ bí mật nghiêm
ngặt điều này, mãi cho đến nhiều năm sau đó, chính xác là để kiềm chế các áp lực
chính trị nhằm mở rộng chiến tranh. Trong thế giới công nghệ truyền thông ồ ạt
và thông tin tình báo nguồn mở dồi dào ngày nay, chúng ta chẳng thể nào giữ được
bí mật về cuộc không chiến ở Ukraine.
Sự bùng nổ
của một cuộc chiến tranh giữa các cường quốc không phải là rủi ro duy nhất đến
từ tuyên bố vùng cấm bay. Hãy thử cân nhắc chuyện gì có thể xảy ra nếu người
Nga từ chối chấp nhận vùng cấm bay, và trước thái độ ngoan cố của Moscow, NATO
đành lùi bước và quyết định không thực thi đề xuất – chính xác là để tránh một
cuộc chiến tranh rộng hơn. Tuyên bố về khu vực cấm bay sẽ bị coi là một trò lừa
bịp thảm hại. Dù tầm quan trọng của sự khả tín thường bị phóng đại, và quá thường
xuyên bị đem ra làm cái cớ cho những cam kết quân sự sai lầm, nhưng trong trường
hợp này, thiệt hại đối với uy tín của NATO sẽ là rất lớn. Một động thái như vậy
sẽ không chỉ cho thấy khẳng định giúp đỡ Ukraine chỉ là nói suông, mà còn làm nổi
bật và gia tăng những nghi ngờ về việc liệu liên minh có thực hiện đúng lời hứa
căn bản của họ về phòng thủ tập thể hay không, đặc biệt là khi nói đến các
thành viên yếu hơn, mới hơn, chẳng hạn như các quốc gia vùng Baltic dễ bị tổn
thương.
Một sai lầm lớn
Cuộc chiến
ở Ukraine là kết quả đau đớn từ phản ứng thái quá của Putin đối với hai sai lầm
của NATO. Sai lầm thứ nhất là tuyên bố của khối này, vào năm 2008, rằng một
ngày nào đó Ukraine và Gruzia sẽ tham gia vào tổ chức. (Trong trường hợp của
Ukraine, một kế hoạch nhằm “Phần Lan hóa” nước này sẽ là lựa chọn tốt hơn, đánh
đổi sự trung lập trong quan hệ giữa Moscow và phương Tây, để lấy độc lập và dân
chủ nội bộ.) Tuy nhiên, một khi mục tiêu trở thành thành viên NATO được công
khai, sai lầm thứ hai là không hoàn thành nó ngay lập tức, và qua đó sớm thiết
lập hàng rào răn đe đảm bảo của NATO. Khi xét đến quan điểm của Putin, rằng việc
mở rộng NATO là một mối đe dọa đối với Nga, chính giai đoạn mơ hồ này đã tạo ra
động cơ – và cơ hội – để ông ta thực hiện một cuộc chiến phòng ngừa.
Kết quả là
một bi kịch đau lòng. Nhưng cố gắng đối phó với nó bằng cách trực tiếp tham chiến
một cách muộn màng – tuyệt vọng lập ra một vùng cấm bay, mà không có gì đảm bảo
rằng nó sẽ không dẫn đến một thảm họa lớn hơn – sẽ chỉ làm bi kịch ngày càng tồi
tệ hơn. NATO nên giúp Ukraine, nhưng phải duy trì nó dưới ngưỡng leo thang đã định
sẵn. Nghĩa là sự hỗ trợ sẽ ít nhiều gồm những gì liên minh đã và đang làm: cứu
trợ dân thường tị nạn, và hỗ trợ vũ khí, đạn dược, lương thực, và hậu cần cho
quân đội Ukraine bất cứ khi nào có thể.
Sự thôi
thúc giúp đỡ Ukraine là điều đáng hoan nghênh. Nhưng điều duy nhất tồi tệ hơn
việc đứng ngoài quan sát nước này dần thất bại chính là hứa hẹn can thiệp quân
sự trực tiếp, và sau đó không làm được gì, hoặc tệ hơn, gia tăng rủi ro và biến
những gì rõ ràng là một cuộc chiến tranh lạnh mới thành một cuộc chiến tranh
nóng – một cuộc chiến có khả năng tạo ra tàn phá và thương vong lớn hơn trên khắp
thế giới, ở một quy mô khiến cho thiệt hại hiện tại ở Ukraine trở thành không
đáng kể.
-----------------
Richard
K. Betts là Giáo sư về Chiến tranh và Nghiên cứu Hòa bình tại Đại học Columbia,
Nghiên cứu viên cao cấp của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, và là tác giả cuốn American Force: Dangers, Delusions,
and Dilemmas in National Security.
Nguồn: Richard K. Betts, The
No-Fly Zone Delusion, Foreign Affairs, 10/03/2022
No comments:
Post a Comment