Sự
mơ hồ của Hoa Kỳ về Đài Loan chỉ làm nguy hiểm thêm
Richard Haass và David Sacks
Trần
Giao Thủy chuyển ngữ
POSTED
ON DECEMBER 15,
2021
https://dcvonline.net/2021/12/15/su-mo-ho-cua-hoa-ky-ve-dai-loan-chi-lam-nguy-hiem-them/
Biden
phải công bố rõ ràng cam kết của Mỹ với Trung Hoa — và thế giới
Chiến hạm và tìm thủy đĩnh của Trung Hoa
ngoài khơi tỉnh Sơn Đông, tháng 4 năm 2009. Guang Niu / Reuters
Trong năm
qua, những câu hỏi về việc liệu Trung Hoa có cưỡng bức Đài Loan hay không và
cách tốt nhất để ngăn chặn sự xâm lược của Trung Hoa đã trở thành tâm điểm của
các cuộc tranh luận về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Đây là một vấn đề do sự
kết hợp của nhiều yếu tố. Giới chức chính phủ và giới phân tích ở Washington nhận
ra rằng Trung Hoa hiện có khả năng gây chiến với Hoa Kỳ về vấn đề Đài Loan — một
khái niệm từng có vẻ xa vời. Giới quan sát Mỹ ngày càng có ý kiến cho rằng Chủ
tịch Trung Hoa Tập Cận Bình, đã không phải gánh chịu hậu quả nhiều sau cuộc đàn
áp ở Hong Kong và những hành động gây hấn của ông ở Biển Đông và tin rằng Hoa Kỳ
đang suy sụp là điều không thể tránh khỏi, cảm thấy được khuyến khích để tăng vận
tốc thống nhất Đài Loan với Hoa lục.
Để đối phó
với mối quan tâm ngày càng tăng này, chính quyền Mỹ của Tổng thống Joe Biden đã
ưu tiên tăng cường quan hệ với Đài Loan và báo hiệu rằng Mỹ đang coi trọng mối
đe dọa đối với Đài Loan. Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã gọi Trung Hoa đúng tên là “thách
thức từng bước” của mình và đã mô tả một cuộc xung đột tiềm tàng đối với
Đài Loan là “kịch bản từng bước” của họ, trong khi Tư lệnh Bộ tư lệnh Ấn
Độ Dương — Thái Bình Dương của Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng nguy hiểm lớn nhất trong
khu vực là mối đe dọa khi Trung Hoa sử dụng vũ lực chống lại Đài Loan. Nhưng ưu
tiên ngân sách của chính quyền và tư thế lực lượng toàn cầu của Mỹ không phản ảnh
cảm giác cấp bách. Chính quyền Mỹ cũng không giải thích được với Quốc hội và
người dân Mỹ tại sao Đài Loan lại quan trọng đến mức phải đem sinh mạng người Mỹ
ra tiền tuyến để bảo vệ Đài Loan.
Những gì
chính quyền Biden đã làm cũng có sai sót. Mỹ đã chính thức chấp nhận chính sách
dùng chiến lược mơ hồ đã có từ lâu, không chịu tuyên bố dứt khoát rằng Hoa Kỳ sẽ
ra tay bảo vệ Đài Loan nếu Trung Hoa sử dụng vũ lực tấn công đảo quốc này.
Nhưng cách ứng xử này không có thể ngăn cản một Trung Hoa ngày càng quyết đoán,
chấp nhận rủi ro và có sức mạnh. Cẩm nang này chỉ có hiệu quả khi Đài Loan và
Hoa Kỳ có lợi thế quân sự đối với Trung Hoa không còn có thể giữ chân được một
Quân đội Giải phóng Nhân dân đã dành hai mươi lăm năm qua để chuẩn bị cho một
cuộc xung đột với Đài Loan. Điều mà Washington cần bây giờ là một chính sách “rõ
ràng về chiến lược.” Như chúng tôi đã biện luận trên tạp chí Ngoại giao một năm trước,
cách tốt nhất để giảm nguy cơ chiến tranh là nói rõ với Trung Hoa rằng Hoa Kỳ sẽ
trả miếng một cuộc tấn công nhằm vào Đài Loan bằng tất cả những vũ khí có sẵn,
gồm cả những biện pháp trừng phạt kinh tế nghiêm khắc và quân lực.
Washington
cần nói rõ với Bắc Kinh rằng cái giá phải trả của hành động gây hấn của họ sẽ lớn
hơn rất nhiều so với bất kỳ lợi ích nào họ nghĩ có thể đạt được.
Trong một
năm kể từ khi chúng tôi đưa ra lập luận đó, dường như Biden đã hơn một lần
trình bày rõ ràng về chiến lược, cho thấy rằng Hoa Kỳ sẽ giúp bảo vệ Đài Loan
trong trường hợp bị Trung Hoa tấn công. Tuy nhiên, mỗi lần như vậy, giới chức
chính quyền Mỹ sau đó đã kéo những tuyên bố của Biden lùi lại, trong tiến trình
này, họ báo hiệu sự thiếu ý chí đối với Trung Hoa, và đồng minh cũng như đối
tác đang lo ngại và đang tìm sự hướng dẫn rõ ràng của Hoa Kỳ để họ có thể điều
chỉnh tư thế của mình cho phù hợp. Thêm vào sự rối rắm đó là thực tế là mặc dù
giới chức chính phủ Mỹ nhấn mạnh rằng không có gì thay đổi, chính quyền Mỹ đã
có những hành động rõ ràng nhằm nâng cấp quan hệ giữa Mỹ với Đài Loan: những
hành động của chính phủ Mỹ thường phù hợp với những bình luận không chính thức
của Biden hơn là với quan điểm chính thức của chính phủ. Kết quả thực là nguy
cơ Trung Hoa tính toán sai lầm và xác suất xẩy ra xung đột ngày càng lớn.
Tuy thế, mặc
dù sự rõ ràng về mặt chiến lược sẽ làm giảm nguy cơ xung đột, nhưng nó không phải
là một chiếc đũa thần. Chiến lược rõ ràng sẽ cần đi kèm với các khoản đầu tư lớn
để Hoa Kỳ đủ khả năng bảo vệ Đài Loan. Và Washington cần bổ túc những hoạt động
nâng cấp quân sự bằng những nỗ lực ngoại giao nhằm báo hiệu cho Trung Hoa biết
cái giá kinh tế và chính trị mà nước này sẽ phải trả nếu có hành động gây hấn.
Hãy coi đó là việc theo đuổi sự rõ ràng về chiến lược để tăng cường khả năng
răn đe.
Hoa Kỳ
cũng nên đưa ra một biện pháp trấn an Trung Hoa, nhấn mạnh rằng Washington tiếp
tục giữ chính sách “một Trung Hoa” và không ủng hộ sự độc lập của Đài
Loan. Trên thực tế, điều này sẽ dẫn đến việc hạ thấp quan hệ Mỹ-Đài Loan trước
công luận thế giới, trong khi đồng thời cải thiện an ninh kinh tế của Đài Loan,
tăng khả năng phục hồi của hòn đảo trước sức ép của Trung Hoa và hợp tác với quốc
gia này về an ninh chuỗi cung ứng.
Mặt tiêu cực
của biện pháp trên là cơ hội để thực hiện sự thay đổi này rất hẹp và được cho
là đang khép lại. Tuy nhiên, mặt tích cực là Hoa Kỳ có thể đạt được sự rõ ràng
trong chính sách và nâng cao khả năng của mình một cách hoàn toàn nhất quán với
cam kết duy trì mối quan hệ hợp tác với Trung Hoa. Được thiết lập và khai triển
đúng cách, cách ứng xử như vậy sẽ không chỉ tránh được xung đột mà còn cho phép
có sự hợp tác chọn lọc giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa.
BIỆN
LUẬN CHO SỰ RÕ RÀNG
Một yếu tố
đặc biệt hậu thuẫn sự rõ ràng hơn về quan điểm của Washington đối với Đài Loan
là cách mà những nghi ngờ liên quan đến độ tin cậy đối với Hoa Kỳ đã tăng lên
trong những năm gần đây. Bất chấp những bảo đảm mà Hoa Kỳ hứa hẹn với Ukraine
trong Bản ghi nhớ Budapest năm 1994, khi Nga xâm lược Crimea và sáp nhập lãnh
thổ vào năm 2014, Washington đã hạn chế phản ứng, chỉ dùng một số lệnh trừng phạt
kinh tế. Năm ngoái, khi Trung Hoa giáng những đòn chí mạng vào nền dân chủ của
Hong Kong do vi phạm hiệp ước mà nước này đã ký với Anh Quốc, Hoa Kỳ và các đồng
minh khác phần lớn đã đứng sang một bên. Gần đây nhất, Hoa Kỳ đã bỏ rơi các đồng
minh ở Afghanistan thay vì thực hiện một một cuộc rút quân có điều kiện.
Kết hợp với
sự mơ hồ có chủ đích trong chính sách của Mỹ đối với Đài Loan, làm giảm uy tín
của Mỹ tạo ra tiềm năng cho một tính toán sai lầm nguy hiểm của Trung Hoa có thể
dẫn đến chiến tranh. Trong lịch sử, sự không chắc chắn về ý định của bên kia
thường là động lực chính gây ra bất ổn và xung đột, với cả Chiến tranh Thế giới
thứ nhất và Chiến tranh Đại hàn là hai ví dụ. Sự rõ ràng làm giảm nguy cơ xung
đột bắt đầu do một bên đánh giá sai ý định và khả năng của bên kia.
Mặc dù sự
rõ ràng về chiến lược sẽ làm giảm nguy cơ xung đột, nhưng đó không phải là một
chiếc đũa thần.
Một số người cho rằng việc từ bỏ sự mơ hồ chiến lược sẽ dẫn
đến sự rạn nứt trong quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh. Nhưng không có gì
trong ba bản thông cáo chung thiết lập nền tảng của mối quan hệ Hoa Kỳ-Trung
Hoa hiện đại có thể ngăn cản sự thay đổi như vậy trong chính sách của Hoa Kỳ.
Thật vậy, điều quan trọng cần nhớ là Hoa Kỳ đã áp dụng chính sách mơ hồ chiến
lược vì các tổng thống liên tiếp xác định rằng ứng xử như vậy là cách tốt
nhất để bảo vệ lợi ích của Hoa Kỳ, không phải vì đó là một điều kiện bình thường
hóa hay một cam kết mà Washington đưa ra với Bắc Kinh. Nó luôn là một lựa chọn
chính sách đơn phương của Hoa Kỳ, một lựa chọn chính sách cần được điều chỉnh để
phù hợp với những hoàn cảnh đang thay đổi.
Những người
khác lập luận rằng sự rõ ràng về chiến lược sẽ thúc đẩy Đài Loan tìm sự độc lập
chính thức. Tuy nhiên, các cuộc thăm dò dư luận cho thấy rằng ngay cả khi mức độ
mà người dân Đài Loan xác định họ là người Đài Loan (trái ngược với là người
Trung Hoa hoặc là cả Đài Loan và Trung Hoa) đã tăng đáng kể trong 15 năm qua, thì chưa đến 6% dân Đài Loan ủng hộ độc lập ngay
khi đó là việc khả thi; đa số dân Đài Loan muốn duy trì hiện trạng vô thời hạn
hoặc quyết định vào một ngày sau đó. Tổng thống Đài Loan Tsai Ing-wen, thuộc Đảng
Tiến bộ Dân chủ ủng hộ độc lập trên danh nghĩa, đã nhiều lần tuyên bố rằng Đài Loan không cần phải
tuyên bố độc lập vì nước này đã là một quốc gia độc lập. Tuy nhiên, Hoa Kỳ sẽ
nói rõ rằng cam kết viện trợ cho Đài Loan không phải là vô điều kiện và không
nhất thiết sẽ chi trả cho một cuộc khủng hoảng do Đài Bắc khởi xướng.
QUÁ
ỠM Ờ
Về mặt
chính thức, chính quyền Biden đã chọn duy trì chính sách mơ hồ chiến lược đã có
từ lâu. Giám đốc Cơ quan Tình báo Quốc gia Avril Haines nói rằng Trung Hoa sẽ
coi việc chuyển hướng khỏi truyền thống đó là “gây bất ổn sâu sắc”. Kurt
Campbell, điều hợp viên của Tòa Bạch Ốc phụ trách khu vực Ấn Độ-Thái Bình
Dương, lập luận rằng sự thay đổi sẽ đem theo “những bất lợi đáng kể”. Nicholas
Burns, người mà Biden chọn để trở thành Đại sứ Hoa Kỳ tại Trung Hoa, gần đây đã
nhắc lại rằng chính quyền Mỹ vẫn cam kết với chính sách mơ hồ chiến lược.
Tuy nhiên,
trên thực tế, sự mơ hồ chiến lược của chính quyền Biden ngày càng mơ hồ hơn.
Vào tháng 8, Biden nhận xét rằng Hoa Kỳ có cùng “cam kết thiêng liêng” với
Đài Loan mà họ có với các đồng minh hiệp ước của mình. Chỉ hai tháng sau, Biden
được hỏi liệu Hoa Kỳ có bảo vệ Đài Loan nếu Trung Hoa tấn công hòn đảo này hay
không. Ông đã trả lời, “Vâng, chúng tôi có cam kết thực hiện điều đó.”
Trong cả
hai lần đó, Tòa Bạch Ốc đã vội vàng rút lại các tuyên bố của Biden, gây ra sự nhầm
lẫn về bản chất thực sự của chính sách của chính quyền Mỹ hiện nay. Trong khi
đó, chính quyền Hoa Kỳ đã thực hiện một số quyết định như cho thấy Mỹ tăng cường
cam kết đối với Đài Loan. Ngay cả trước khi Biden nhậm chức, ông đã mời đại diện
của Đài Loan đến Hoa Kỳ dự lễ nhậm chức của mình, lần đầu tiên sau bốn mươi
năm, một Tổng thống đắc cử của Hoa Kỳ đã mở lời mời như vậy. Trong những ngày
cuối cùng của nhiệm kỳ, chính quyền Trump đã loại bỏ các hạn chế có từ lâu đối
với giới chức Hoa Kỳ có liên hệ với đối tác Đài Loan. Thay vì đảo ngược quyết định
đó, chính quyền Biden đã đẩy nó đi xa hơn nữa bằng cách gửi đại sứ Hoa Kỳ tại
Palau đến thăm Đài Loan, lần đầu tiên một đương kim đại sứ Hoa Kỳ đã làm như vậy
kể từ khi Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Hoa. Và chính quyền
Biden đã nhấn mạnh cam kết “vững chắc” đối với Đài Loan và nhấn mạnh tầm quan
trọng của hòa bình và ổn định ở eo biển Đài Loan trong các tuyên bố chung với
Nhật Bản, Nam Hàn, Liên minh châu Âu và G-7.
Trước sự
mâu thuẫn của Washington, những nước đồng minh của Mỹ đã hướng tới phiên bản rõ
ràng chiến lược của riêng họ, có thể đó là một trong những trong nỗ lực nhằm
khuyến khích Washington làm điều tương tự. Vào tháng 6 vừa qua, Bộ trưởng Quốc
phòng Nhật Bản lúc bấy giờ là Nobuo Kishi tuyên bố rằng “hòa bình và ổn định
của Đài Loan có liên quan trực tiếp đến Nhật Bản”, dường như ngụ ý rằng Nhật
Bản sẽ đáp trả một cuộc tấn công của Trung Hoa vào Đài Loan. Thủ tướng Nhật Bản
Fumio Kishida đã lập luận rằng “chiến tuyến của cuộc xung đột giữa chủ nghĩa
độc tài và dân chủ là châu Á, và đặc biệt là Đài Loan.” Cựu Thủ tướng
Shinzo Abe, người vẫn giữ ảnh hưởng đáng kể trong chính trường Nhật Bản, là người
có khuynh hướng tiến bộ nhất, đã thẳng thừng cảnh cáo:
“Tình
trạng khẩn cấp ở Đài Loan là trường hợp khẩn cấp của Nhật Bản, và do đó là trường
hợp khẩn cấp đối với liên minh Nhật Bản-Hoa Kỳ. Người dân ở Bắc Kinh, đặc biệt
là Chủ tịch Tập Cận Bình, không bao giờ nên hiểu lầm khi nhìn nhận điều này.” (Shinzo Abe)
Úc còn tiến
xa hơn nữa. Vào tháng 11, Bộ trưởng Quốc phòng Peter Dutton đã công khai tuyên
bố rằng việc Australia không tham gia cùng Mỹ trong việc bảo vệ Đài Loan là điều
không thể tưởng tượng nổi và cảnh cáo rằng việc nhân nhượng trước sự xâm lược của
Trung Hoa sẽ dẫn đến một trật tự khu vực mới. Sự yểm trợ này từ hai trong số
các đồng minh khu vực quan trọng nhất của Washington cho thấy cái giá của xung
dột đang tăng cao như thế nào.
ĐI
TÌM SỰ RÕ RÀNG
Hoa Kỳ phải
đi kèm với một tuyên bố về sự rõ ràng chiến lược với những nỗ lực chính để chứng
tỏ khả năng và ý chí khắc phục sự xâm lược của Trung Hoa. Hơn cả, Washington cần
phải coi việc chuẩn bị cho một cuộc xung đột về Đài Loan là ưu tiên hàng đầu của
Bộ Quốc phòng và cung cấp tài nguyên cho nó. Điều này có nghĩa là đầu tư vào vũ
khí tấn công tầm xa, chuyển thêm quân nhu và quân cụ đến Guam, đồng thời cải
thiện tầm hoạt động và khả năng dự phòng của nhưng cơ sở tình báo, giám sát và
trinh sát trong khu vực.
Lý tưởng
nhất là chính quyền Biden sẽ trang trải những chi phí mới này bằng cách tăng tổng
chi tiêu quốc phòng; nếu thất bại, cách duy nhất để chi trả cho phí tổn này là
thâu hẹp lại những chiến trường khác, trước nhất là châu Âu và Trung Đông. Tuy
nhiên, làm như vậy không phải dễ (hoặc khôn ngoan) trước những thách thức của
Nga và Iran hiện nay. Tất cả những điều đó có nghĩa là để ngăn chặn một Trung
Hoa có khả năng hơn có thể sẽ đòi hỏi nhiều hơn về mặt tài nguyên quân sự và
ngoại giao.
Việc tăng
cường phối hợp với Nhật Bản sẽ rất quan trọng, vì đây là hậu cứ của Hoa Kỳ gần
Đài Loan nhất, nơi đóng quân của hơn 50.000 lính Mỹ. Hoa Kỳ nên hiện đại hóa cấu
trúc chỉ huy và kiểm soát của Mỹ ở Nhật Bản, xép đặt để có sự hiện diện luân
phiên của quân đội ở các hòn đảo cực tây của Nhật Bản và thảo luận về việc phân
chia trách nhiệm với quốc gia này trong trường hợp xảy ra xung đột quân sự đối
về Đài Loan. Với việc Australia sẵn sàng có lập trường vững chắc về vấn đề này,
Washington cũng nên tìm hiểu hợp tác ba bên với Canberra và Tokyo.
Phải không
còn nghi ngờ gì nữa khi Trung Hoa tấn công Đài Loan thì Hoa Kỳ sẽ phản ứng mạnh.
Bảo vệ Đài
Loan sẽ gây căng thẳng nghiêm trọng cho Hoa Kỳ về mặt hậu cần, nó đòi Mỹ nhanh
chóng chuyển nhu yếu phẩm vào khu vực. Ngũ giác đài nên bắt đầu luyện tập cho
thử thách đó bằng cách thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận tăng cường lực
lượng đến khu vực và chuẩn bị trước các nguồn quân cụ bổ túc ở Guam và Nhật Bản.
Hoa Kỳ
cũng cần nói rõ rằng việc Trung Hoa sử dụng vũ lực sẽ không chỉ dẫn đến phản ứng
quân sự của Mỹ mà còn khiến sự tăng trưởng kinh tế liên tục của Trung Hoa gặp rủi
ro, từ đó có thể đe dọa quyền lực Đảng Cộng sản Trung Hoa đang nắm chặt trong
tay. Để đạt được mục tiêu đó, Washington và đồng minh ở châu Âu nên đưa ra một
cơ chế trừng phạt để áp dụng trong trường hợp Trung Hoa tấn công — và nên tiết
lộ mức độ nghiêm trọng của các biện pháp trừng phạt có thể sử dụng đó cho Trung
Hoa biết. Hoa Kỳ cũng cần phát triển một kế hoạch để đối phó với các biện pháp
trừng phạt kinh tế mà chính Trung Hoa sẽ áp dụng đối với các nước yểm trợ bảo vệ
Đài Loan.
Thừa nhận
rằng sự chuyển đổi sang sự rõ ràng có thể sẽ khiến Trung Hoa gia tăng sức ép đối
với Đài Loan trong ngắn hạn, Hoa Kỳ cũng nên giúp để Đài Loan kiên cường hơn
trước sức ép của Trung Hoa và trở thành một mục tiêu quân sự khó chiếm hơn. Nó
gồm việc yểm trợ Đài Loan về an ninh bầu cử và an ninh mạng, đồng thời giúp đảo
quốc này đa dạng hóa nền kinh tế bằng cách đàm phán một thỏa thuận thương mại tự
do Hoa Kỳ-Đài Loan. Về mặt quân sự, Washington phải tiếp tục thúc ép Đài Bắc
tăng chi tiêu quốc phòng, yểm trợ để họ cải tổ các lực lượng trừ bị và đưa ra một
sáng kiến viện trợ an ninh bằng tài trợ của Hoa Kỳ cho Đài Loan nếu nước này tự
bỏ tiền đầu tư vào các vũ khí phi đối xứng như hỏa tiễn, máy bay không người
lái, thủy lôi và tàu tấn công nhanh.
Đồng thời,
Hoa Kỳ nên hạn chế những bước đi mang tính biểu tượng mà Bắc Kinh coi là tiền
thân của chính sách “một Trung Hoa, một Đài Loan” và điều đó về căn bản
sẽ không chuẩn bị giúp cho Đài Loan chống trả một cuộc xâm lăng hoặc làm cho
đảo quốc này có khả năng chịu áp lực của Trung Hoa hơn. Chiến hạm Mỹ nên
hạn chế việc ghé thăm những hải cảng của Đài Loan và các cuộc tập trận quân sự
song phương nên tiếp tục nhưng cần giữ im lặng. Giới ngoại giao Hoa Kỳ nên gặp
gỡ những người đồng cấp của Đài Loan nhưng dù làm như vậy nhưng không cần thông
báo mọi cuộc gặp với thế giới. Và các thành viên của Quốc hội nên kiềm chế việc
khẳng định quan tâm của Hoa Kỳ về việc giữ Đài Loan tách biệt với Hoa lục, thay
vào đó nhấn mạnh rằng bất kỳ giải pháp nào về sự khác biệt xuyên eo biển phải
được thực hiện với sự đồng ý của người dân Đài Loan.
ĐIỀU
CHỈNH ĐỂ DUY TRÌ HIỆN TRẠNG
Dù chính
quyền Biden có theo đuổi chính sách rõ ràng về chiến lược hay không, thì phải
không còn nghi ngờ gì nữa ngay trong chính phủ Hoa Kỳ là nếu Trung Hoa tấn công
Đài Loan thì Hoa Kỳ sẽ phản ứng mạnh. Nếu không làm như vậy rất có thể dẫn đến
việc làm đổ vỡ mạng lưới đồng minh Hoa Kỳ ở châu Á và làm suy yếu không thể đảo
ngược được vị thế của Washington trong khu vực năng động nhất về kinh tế trên
thế giới. 24 triệu người dân Đài Loan sẽ thấy nền dân chủ khó giành được của họ
bị nghiền nát. Trung Hoa sẽ trở thành trung tâm sản xuất chất bán dẫn chính của
thế giới và là đối tác thương mại lớn thứ chín của Hoa Kỳ. Đồng minh của Mỹ như
Australia, Nhật Bản và Nam Hàn có thể sẽ thích ứng với Trung Hoa hoặc tìm cách
trở nên tự chủ về mặt chiến lược. Những đối tác mới nổi của Hoa Kỳ, chẳng hạn
như Ấn Độ và Việt Nam, có thể sẽ tính toán tương tự. Phổ biến vũ khí hạt nhân sẽ
trở thành một mối nguy hiểm thực sự. Ảnh hưởng của Mỹ sẽ suy giảm, và ổn định
khu vực sẽ bị ảnh hưởng. Trung Hoa, khi phá vỡ cái gọi là chuỗi đảo đầu tiên vốn
có truyền thống là viền ngăn cản sức mạnh quân đội của họ, sẽ có thể phát
triển sức mạnh trên khắp Tây Thái Bình Dương và gây ra mối đe dọa nghiêm trọng
hơn đối với Guam và Hawaii. Quay lưng, đứng sang một bên khi đối diện với sự
xâm lăng của Trung Hoa sẽ phá vỡ trật tự quốc tế mà Hoa Kỳ đã dày công xây dựng
trong 3/4 thế kỷ qua.
Khi Nga
tăng cường quân đội ở biên giới với Ukraine, cũng cần thảo luận về lý do tại
sao Mỹ nên bảo vệ Đài Loan nhưng không gửi lực lượng vũ trang đến bảo vệ
Ukraine. Ở cả hai khu vực, địa hình đều bất lợi cho những lựa chọn quân sự của
Hoa Kỳ, và trong cả hai trường hợp, Hoa Kỳ đều không bị ràng buộc vì một cam kết
an ninh chặt chẽ. Nhưng trong trường hợp của Ukraine, những nước đồng minh và đối
tác của Mỹ không chuẩn bị sẵn sàng để chống lại một cuộc tấn công của Nga và
cũng không mong đợi Hoa Kỳ làm như vậy. Với Đài Loan, ngược lại, đồng minh và đối
tác của Hoa Kỳ trong khu vực đều chuẩn bị sẵn sàng để chống lại sự xâm lăng của
Trung Hoa và có mọi hy vọng và kỳ vọng rằng Hoa Kỳ sẽ có mặt ở đó với họ để làm
nản lòng bất kỳ nỗ lực bá chủ khu vực nào của Trung Hoa. Kết quả là có những lựa
chọn quân sự khả thi ở châu Á.
Tất nhiên,
một cuộc chiến tranh với Trung Hoa về Đài Loan sẽ là thảm họa ngay cả khi phải
dậy cho Trung Hoa một bài học. Đó là lý do tại sao, bất chấp sự thất vọng ngày
càng tăng trong một quốc gia về việc Hoa Kỳ không duy trì quan hệ ngoại giao với
Đài Loan, Washington nên tránh những lời kêu gọi coi Đài Loan như một quốc gia
có chủ quyền, điều này có khả năng gây ra chiến tranh. Mặt khác, những người
cho rằng Hoa Kỳ nên dứt bỏ Đài Loan, về căn bản họ thường không cân nhắc xem
khu vực — và thế giới — sẽ như thế nào sau một ngày Trung Hoa cưỡng chiếm Đài
Loan.
Nguồn:
Dan Bejar/Foreign Affairs
Cho đến
nay, răn đe để tránh xẩy ra cuộc chiến là lựa chọn tốt nhất. Đây là một cách
khác để nói là Hoa Kỳ nên tìm cách duy trì hiện trạng. Tuy nhiên, hiện trạng
không phải là tĩnh và Washington cần phải sang số để duy trì nó. Sự mơ hồ chiến
lược là một cách chiến thuật khôn ngoan và hiệu quả trong nhiều chục năm; Tuy
nhiên, bây giờ, nó đã hoàn thành nhiệm vụ. Sự rõ ràng về cam kết của Hoa Kỳ với
Đài Loan sẽ đẩy một số trong giới hoạch định chính sách Mỹ ra khỏi vùng thoải
mái của họ. Nhưng đó là cách duy nhất để tăng cường khả năng răn đe [Trung
Hoa], trấn an đồng minh, bảo vệ Đài Loan và bảo vệ lợi ích của Hoa Kỳ. Bây giờ
là lúc cần phải trong sáng về sự rõ ràng trong chiến lược.
TÁC GIẢ
Tiến
sĩ Richard Haass là
một chuyên gia ngoại giao kỳ cựu, một tiếng nói nổi bật về chính sách đối ngoại
của Mỹ, và là một nhân vật lãnh đạo lâu đời của các tổ chức phi lợi nhuận. Ông
là chủ tịch Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, năm thứ 19, một tổ chức tư vấn độc lập,
phi đảng phái, nhà xuất bản và tổ chức giáo dục phần chính để giúp mọi người hiểu
rõ hơn về thế giới và những chính sách đối ngoại mà Hoa Kỳ và các quốc gia khác
phải lựa chọn. Ông là tác giả cuốn The
World: A Brief Introduction.
David
Sacks là
chuyên gia nghiên cứu tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại; công việc của ông tập
trung vào quan hệ Hoa Kỳ-Trung Hoa, quan hệ Hoa Kỳ-Đài Loan, chính sách đối ngoại
của Trung Quốc, quan hệ xuyên eo biển và tư tưởng chính trị của Hans
Morgenthau. Ông từng là Phụ tá Đặc biệt cho Tổng thống phụ trách Nghiên cứu
tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.
© 2021
DCVOnline
Nếu đăng lại,
xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại
bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: The Growing Danger of U.S. Ambiguity on Taiwan. Biden Must Make
America’s Commitment Clear to China—and the World | Richard Haass and
David Sacks | Foreign Affairs | December 13, 2021.
No comments:
Post a Comment