Chữ Nôm chết vì nó
phải chết! Vì lẽ đơn giản, cái gì hợp lý thì tồn tại, bất hợp lý thì bị đào thải.
Đó là lẽ tự nhiên.
Các nhà Hán Nôm nuối
tiếc hết chữ Hán rồi đến chữ Nôm, cho nên có vẻ hận chữ quốc ngữ. Nhưng nghịch
lý là khi vẫn dùng chữ quốc ngữ để bày tỏ nỗi lòng, nếu tẩy chay chữ quốc ngữ
khác nào tự vả vào mồm mình, họ đành trút giận lên đầu các giáo sĩ phương Tây để
chứng tỏ mình yêu nước, giữ vững lập trường phương Đông.
Bản chất của vụ này
là chống Thiên Chúa giáo để độc tôn vai trò thống trị của Phật giáo, bởi nhóm học
giả Huế đứng đầu là Nguyễn Đắc Xuân và Lê Cung dù có giấu cái đuôi Phật giáo vẫn
lộ ra đầy đủ chân tướng đệ tử nhà Phật khi có vài ông thầy chùa đứng đằng sau hả
hê cổ vũ. Thích Nhật Từ tự lộ ra ái ố sân si tận gan ruột khi lên tiếng chúc mừng
thành công của bức thư vô đạo nhất trong lịch sử vô đạo của tôn giáo.
Dẹp qua một phía
đám Phật giáo vô đạo này, tôi trả lời thẳng vấn đề chữ Nôm mà những người ngoài
cuộc thắc mắc.
Họ đặt ra hai giả
thiết:
1) Chữ Nôm đã là chữ
ghi âm tiếng Việt. Nếu không có chữ quốc ngữ thay thế, chữ Nôm đã có thể hoàn
chỉnh và được sử dụng chính thức,
2) Khi đã là chữ viết
chính thức ghi âm tiếng Việt, chữ Nôm vừa nối kết với văn hóa truyền thống (thực
ra là văn hóa Hán), vừa đưa dân tộc vươn đến văn minh hiện đại chứ không bị đứt
đoạn như chữ quốc ngữ.
Hai giả thiết này, lẽ
ra bọn Tàu đặt ra hơn là người Việt yêu nước.
Thực chất chữ Nôm
là cái gì vậy? Nó từng được gọi là “Quốc âm”, tức thứ chữ viết ghi âm tiếng Việt.
Nôm là Nam, nhưng tại sao không gọi là Nam mà lại gọi là Nôm. Đã có chữ Nam 南, nhưng thật lạ là các cụ phải chế biến ra thành Nôm
với nhiều cách viết: 喃, 諵. Đọc Nam thành Nôm để quay về cái âm Hán thời thượng
cổ ư? Sao không ghi âm tiếng Việt đang sử dụng mà phải quay về thời thượng cổ?
Từ đó sẽ thấy vô số
cái phi lý trong cách cấu tạo chữ Nôm. Có đến 6 cách cấu tạo. Tôi trích lược từ
wiki cho nhanh:
1) Mượn cả âm và nghĩa của chữ Hán:
Mượn cả âm đọc (âm
Hán Việt) và nghĩa của chữ Hán để ghi lại các từ từ Hán Việt. Âm Hán Việt có ba
loại là:
Âm Hán Việt tiêu
chuẩn: bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán thời Đường. Ví dụ: “ông” 翁, “bà” 婆, “thuận lợi”
順利, “công thành danh toại” 功成名遂.
Âm Hán Việt cổ: bắt
nguồn từ ngữ âm tiếng Hán trước thời Đường. Ví dụ: “mùa” 務 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là”vụ”), “bay” 飛 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phi”), “buồng” 房 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phòng”).
Âm Hán Việt Việt
hoá: là các âm gốc Hán bị biến đổi cách đọc do ảnh hưởng của quy luật ngữ âm tiếng
Việt. Ví dụ: “thêm” 添 (âm Hán Việt tiêu
chuẩn là “thiêm”), “nhà” 家 (âm Hán Việt tiêu
chuẩn là “gia”), “khăn” 巾 (âm Hán Việt tiêu
chuẩn là “cân”), “ghế” 几 (âm Hán Việt tiêu
chuẩn là “kỉ”).
Ba loại âm Hán Việt
kể trên đều được dùng trong chữ Nôm.
2) Mượn âm chữ Hán, không mượn nghĩa:
Mượn chữ Hán đồng
âm hoặc cận âm để ghi âm tiếng Việt. Âm mượn có thể là âm Hán Việt tiêu chuẩn,
âm Hán Việt cổ hoặc âm Hán Việt Việt hoá. Khi đọc có thể đọc giống với âm mượn
hoặc đọc chệch đi. Ví dụ:
Đọc giống như âm
Hán Việt tiêu chuẩn: chữ “một” 沒 có nghĩa là “chìm”
được mượn dùng để ghi từ “một” trong “một mình”, chữ “tốt” 卒 có nghĩa là “binh lính” được mượn dùng để ghi từ “tốt”
trong “tốt xấu”, chữ “xương” 昌 có nghĩa là “hưng
thịnh” được mượn dùng để ghi từ “xương” trong “xương thịt”, chữ “qua” 戈 là tên gọi của một loại binh khí được mượn dùng để
ghi từ “qua” trong “hôm qua”.
Đọc chệch âm Hán Việt
tiêu chuẩn: “gió” 這 (mượn âm “giá”),
“cửa” 舉 (mượn âm “cử”),
“đêm” 店 (mượn âm “điếm”),
“chạy” 豸 (mượn âm “trãi”).
Đọc giống như âm
Hán Việt cổ: chữ “keo” 膠 (“keo” trong “keo
dán”, âm Hán Việt tiêu chuẩn là “giao”) được dùng để ghi lại từ “keo” trong
“keo kiệt”, chữ “búa” 斧 (“búa” trong “cái
búa”, âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phủ”) được dùng để ghi lại từ “búa” trong “chợ
búa” (“búa” trong “chợ búa” là âm Hán Việt cổ của chữ “phố” 鋪).
3) Mượn nghĩa chữ Hán, không mượn âm:
Mượn chữ Hán đồng
nghĩa hoặc cận nghĩa để ghi lại âm tiếng Việt. Ví dụ: chữ “dịch” 腋 có nghĩa là “nách” được dùng để ghi lại từ “nách”
trong “hôi nách”, chữ “năng” 能 có nghĩa là “có
tài, có năng lực” được dùng để ghi lại từ “hay” trong “văn hay chữ tốt”.
4) Tạo chữ ghép:
Chữ ghép, còn gọi
chữ là chữ hợp thể, là chữ được tạo ra bằng cách ghép hai hoặc nhiều hơn chữ
khác thành một chữ. Ví dụ:
“chân” 蹎 (“chân” trong “chân tay”): chữ này được cấu thành từ
chữ “túc” 足 và chữ “chân” 真. “Túc” 足 có nghĩa là
“chân” được dùng làm “nghĩa phù” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. Trong chữ ghép
chữ “túc” 足 khi đứng ở bên
trái phải viết dưới dạng biến thể gọi là “bàng chữ túc” ⻊.
Chữ “chân” 真 (“chân” trong “chân thành”) đồng âm với “chân”
trong “chân tay” được dùng làm thanh phù biểu thị âm đọc của chữ ghép. “gạch” 𥗳 (“gạch” trong “gạch ngói”): chữ này được cấu thành
từ chữ “thạch” 石 và chữ “ngạch” 額. “Thạch” 石 có nghĩa là
“đá” được dùng làm nghĩa phù, ý là gạch thì được làm bằng đất đá. “Ngạch” 額 dùng làm thanh phù.
“khói” 𤌋: chữ này được cấu thành từ chữ “hỏa” 火 và chữ “khối” 塊 bị tỉnh lược
một phần (tỉnh lược bộ “thổ” 土 ở bên trái chữ “khối”
塊). “Hỏa” 火 có nghĩa là
lửa, gợi ý nghĩa của chữ ghép (lửa cháy tạo ra khói), “khối” 塊 gợi âm đọc của chữ ghép.
“ra” 𦋦: chữ này được cấu thành từ chữ “la” 羅 giản hóa và chữ “xuất” 出. “Xuất” 出 có nghĩa là
“ra” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép.
“trời” 𡗶: chữ này được cấu thành từ chữ “thiên” 天 có nghĩa là “trời” và chữ “thượng” 上 có nghĩa là “trên”, ý là “trời” thì nằm ở trên cao.
5) Lược bớt nét của chữ Hán để biểu thị phải đọc
chệch đi:
Lược bớt ít nhất là
một nét của một chữ Hán nào đó để gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này phải đọc
chệch đi. Ví dụ:
chữ “ấy” 𧘇: lược nét chấm “丶” trên đầu
chữ “ý” 衣. Việc lược bớt nét
bút này gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này không đọc là “y” hay “ý” (chữ 衣 có hai âm đọc là “y” và “ý”) mà cần đọc chệch đi.
“khệnh khạng” 𠀗𠀖: chữ “khệnh 𠀗 là chữ “cộng” 共 bị lược bớt nét phẩy
“㇒”, chữ “khạng”
𠀖 là chữ “cộng” 共 bị lược bớt nét mác “㇔”.
“khề khà” 𠀫𠀪: chữ “khề” 𠀫 là chữ “kỳ” bị lược bớt nét phẩy “㇒”, chữ “khà” 𠀪 là chữ “kỳ” bị lược bớt nét mác “㇔”.
6) Mượn âm của chữ Nôm có sẵn:
Dùng chữ Nôm có sẵn
để ghi lại từ tiếng Việt đồng âm hoặc cận âm nhưng khác nghĩa hoặc đồng nghĩa
nhưng khác âm với chữ được mượn. Khi đọc có thể đọc giống với âm đọc của chữ được
mượn hoặc đọc chệch đi. Ví dụ:
Đọc giống với âm đọc
của chữ được mượn: chữ “chín” 𠃩 (“chín” trong “chín người mười ý”) được dùng để ghi từ “chín” trong “nấu
chín”.
Đọc chệch âm: chữ
“đá” 𥒥 (“đá” trong “hòn
đá”) được dùng để ghi từ “đứa” trong “đứa bé”.
Các bạn thấy thế
nào?
Dễ hình dung có năm hậu quả trong dùng chữ
Nôm.
Một là, chữ Nôm ghi
tiếng nói của người Nam nhưng lệ thuộc Hán hoàn toàn, không biết chữ Hán thì
không thể đọc chữ Nôm.
Hai là, vẫn học chữ
nào biết chữ nấy, số lượng chữ Nôm so với chữ Hán đội lên gấp 4, 5 lần (tiếng
Việt có 4500 đến 4800 âm; tiếng Hán Quan thoại có khoảng 1280 âm).
Ba là, chữ Nôm là một
lối cấu tạo tùy tiện, như cái đồ nhà khó ăn mặc luộm thuộm vá chằng vá đụp. Suốt
nhiều thế kỷ, chữ Nôm vẫn không thống nhất một cách viết mà có nhiều cách viết
khác nhau.
Bốn là, gọi là “Quốc
âm” nhưng nửa Hán nửa ta, nửa thượng cổ nửa đang sử dụng, âm không ra âm, hình
không ra hình, nghĩa không ra nghĩa.
Năm là, hậu quả,
người rành Hán nhất cũng phải vừa đọc vừa đoán mò, xem cái chữ như là lá bùa của
bọn thầy bói.
Một thứ chữ nửa ta
nửa Tàu phản chủ, đọc kiểu gì cũng khó và cũng được như vậy thì có ghi được
đúng tiếng nói của dân tộc ta không? Nó cổ lỗ, vá víu tùy tiện như đồ nhà khó
như vậy thì sao không gọi là thụt lùi về thời hoang dã mà gọi là tiến hóa, văn
minh? Sao không bảo chữ Nôm có ý nghĩa bảo tồn văn hóa Hán mà gọi là bảo tồn
văn hóa dân tộc? Những kẻ nhận giặc làm cha mới có thể nói văn hóa Hán là văn
hóa của mình!
Đừng nói do chữ quốc
ngữ ra đời đã giết chết chữ Nôm hay làm cho chữ Nôm chưa kịp hoàn thiện. Sự thực,
chữ Nôm ra đời và hình thành từ thế kỷ thứ 10, nghĩa là đã kéo dài gần 10 thế kỷ
trước khi chữ quốc ngữ ra đời. Chữ Nôm không chỉ tồn tại trên văn bia mà còn tồn
tại trong thi ca, kể cả trong văn bản truyền đạo của các giáo sĩ đến Việt Nam
thời kỳ đầu. Gần 10 thế kỷ đó, nếu chữ Nôm có thể cải biến hợp lý và hoàn chỉnh
được thì nó đã phổ biến và thay thế hoàn toàn chữ Hán trong ý thức độc lập dân
tộc của ông cha ta chứ không cần đến chữ quốc ngữ.
Ơn trời, nếu cho đến
nay vẫn dùng chữ Nôm thì tôi dám chắc dân ta vẫn mù chữ 90%. Và như tôi đã nói,
may mà cả ngàn năm trước, 99% dân Việt mù chữ nên tiếng Việt ta còn chứ không
phải nhờ chữ Nôm.
Không phủ nhận nỗ lực
của cha ông trong chế biến chữ Nôm, nhưng rõ ràng với sự dựa dẫm vào chữ Hán,
cái công cụ ghi lại tiếng nói của dân tộc đã hoàn toàn đi vào ngõ cụt.
Không thể so sánh
chữ Nôm với chữ Hàn, chữ Nhật khi cha ông của hai dân tộc này đã thoát Hán một
cách ngoạn mục ngay từ sớm. Người Hàn, người Nhật tự tạo ra các bộ chữ ghi âm để
ghi âm tiết tiếng mẹ đẻ của họ chứ chẳng chắp vá tùy tiện như chữ Nôm.
Còn vì sao người
Hàn, người Nhật không dùng chữ Latin (trong nghĩa là dùng chính thức chứ không
phải không dùng) mà vẫn tiến bộ, văn minh thì lại là chuyện khác.
No comments:
Post a Comment